Connect with us

Quốc Tế

Ngành hàng xa xỉ mất 50 triệu khách hàng chỉ trong 1 năm chật vật với nhóm khách hàng GenZ

Published

on

Trong bối cảnh Gen Z vừa muốn khẳng định cá tính, vừa đòi hỏi sự hòa nhập trên mạng xã hội, các thương hiệu xa xỉ buộc phải tìm cách cân bằng giữa tính độc quyền và khả năng “giao tiếp số” – nếu không muốn bị bỏ lại phía sau. Ngành hàng xa xỉ mất 50 triệu khách hàng chỉ trong 1 năm chật vật với nhóm khách hàng GenZ.

Sau thời gian mở rộng để thu hút khách hàng trong đại dịch, các thương hiệu xa xỉ đang rút lui về “vùng an toàn” của sự độc quyền. Tuy nhiên, để chinh phục thế hệ tiêu dùng mới – những người thích chia sẻ mọi khoảnh khắc lên mạng xã hội – họ buộc phải dung hòa giữa tính bí ẩn và nhu cầu phô bày.

Theo báo cáo gần đây của Bain & Co, ngành hàng xa xỉ đang mất đà tăng trưởng rõ rệt. Ước tính quy mô toàn ngành đạt 1.500 tỷ euro (tương đương 1.700 tỷ USD) trong năm 2024, nhưng quý I/2025 đã ghi nhận mức suy giảm khoảng 3% so với cùng kỳ năm trước.

Ngay trong năm 2024, nhóm hàng xa xỉ cá nhân – bao gồm thời trang, phụ kiện, mỹ phẩm cao cấp – là một trong những phân khúc sụt giảm rõ rệt nhất, giảm từ 369 tỷ euro năm 2023 xuống còn 364 tỷ euro. Đây là lần đầu tiên ngành này co lại trong 15 năm, ngoại trừ giai đoạn đại dịch.

Khoảng cách giữa các thương hiệu dẫn đầu và phần còn lại cũng ngày càng rõ rệt. Bain cho biết chênh lệch giữa nhóm doanh nghiệp trong top 25% và nhóm cuối bảng (25%) đã tăng gấp 1,5 lần trong quý I/2025 so với cùng kỳ năm trước. Trong khi thương hiệu lớn tiếp tục bứt tốc, khoảng 20 – 30% ở nhóm dưới tiếp tục ghi nhận tăng trưởng âm.

Một phần nguyên nhân đến từ việc người tiêu dùng ngày càng cân nhắc bài toán “giá trị” – liệu họ có nhận được đủ giá trị tương xứng với số tiền bỏ ra, dù đó là trải nghiệm, sự công nhận xã hội hay chất lượng thủ công?

Claudia D’Arpizio, chuyên gia tại Bain & Co, cho biết trong nhiều năm, các thương hiệu xa xỉ đã cố gắng mở rộng đối tượng bằng cách tung ra các dòng sản phẩm tiếp cận như streetwear, giày sneaker hay mỹ phẩm – vốn phù hợp với giới trẻ hoặc người có ngân sách eo hẹp.

Tuy nhiên, chiến lược này bị cho là đã đi quá đà. Nhiều thương hiệu lạm dụng các thiết kế biểu tượng, giảm tốc độ đổi mới, khiến người tiêu dùng nghi ngờ về giá trị thực sự của món hàng xa xỉ họ đang sở hữu.

“Hệ quả là năm ngoái ngành mất khoảng 50 triệu khách hàng, đặc biệt ở nhóm trẻ tuổi. Tỷ lệ khách hàng trung thành và giới thiệu thương hiệu cũng lao dốc. Hiện các thương hiệu đang nỗ lực sửa sai, tìm cách khơi lại mối quan hệ với khách hàng mà không đánh mất tính độc quyền vốn có”, D’Arpizio nói.

Bài toán độc quyền giữa thời đại mạng xã hội

Duy trì tính độc quyền trong kỷ nguyên số là một thách thức lớn, khi người tiêu dùng trẻ – đặc biệt là Gen Z – luôn sẵn sàng chia sẻ mọi thứ trên mạng.

Chật vật với GenZ sống ảo, ngành hàng xa xỉ mất 50 triệu khách hàng chỉ trong 1 năm - ảnh 2
Hình minh họa. Nguồn: Fortune

Thời của các sự kiện thượng lưu kín đáo, những phòng mua sắm “hậu trường” không được phép quay phim đã qua. Giờ đây, mọi thứ đều có thể xuất hiện trên dòng “For You” chỉ vài phút sau khi diễn ra.

“Xa xỉ xưa nay luôn gắn với việc phô trương”, D’Arpizio nhận định. “Thế hệ trước thể hiện sự giàu có, thành tựu. Còn Gen Z lại thể hiện cá tính, gu thẩm mỹ và chất lượng sống của bản thân”.

Theo bà, Gen Z vừa khao khát thể hiện cái tôi, vừa mong muốn hòa nhập – hai xu hướng tưởng như đối lập nhưng lại thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu tiêu dùng hàng xa xỉ. Bởi các thương hiệu cao cấp có thể cung cấp sự đồng điệu, trong khi vẫn cho phép mỗi người sáng tạo phong cách riêng trong khuôn khổ đó.

Bà nói thêm: “Truyền thông xã hội đã thổi bùng tiêu dùng xa xỉ. Khả năng chia sẻ rộng rãi đã mở ra thêm lượng khách hàng mới và tăng đáng kể mức độ phủ sóng của thương hiệu. Các nhãn hàng vẫn muốn giữ nét độc quyền, nhưng họ hiểu rất rõ sức mạnh của mạng xã hội”.

Ver2Solution theo Fortune

Continue Reading
Click to comment

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Quốc Tế

Ăn nên làm ra khi người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu

Published

on

Doanh thu và lợi nhuận quý trước của Walmart đều tăng, trong bối cảnh người Mỹ đối mặt với giá cả đi lên do lạm phát, thuế nhập khẩu. Xu hướng ăn nên làm ra khi người tiêu dùng tiết kiệm chi tiêu.

Ngày 20/11, hãng bán lẻ lớn nhất thế giới Walmart công bố kết quả kinh doanh quý III. Theo đó, lợi nhuận của hãng tăng 34% lên 6,1 tỷ USD. Doanh thu tại các cửa hàng mở từ 1 năm trở lên tại Mỹ tăng 4,5%.

Thương mại điện tử cũng là một điểm sáng với Walmart, khi doanh thu toàn cầu tăng 27%. Công ty này cũng nâng dự báo doanh thu và lợi nhuận quý cuối năm.

Tại Mỹ, ngày càng nhiều người quan tâm đến khả năng chi trả khi họ vật lộn với giá cả đi lên do lạm phát và thuế nhập khẩu. Bức tranh việc làm không rõ ràng càng làm tăng lo ngại của người tiêu dùng. Dù các doanh nghiệp tạo thêm 119.000 việc làm trong tháng 9, tỷ lệ thất nghiệp lại nhích lên 4,4%. Việc chính phủ Mỹ đóng cửa 43 ngày, ảnh hưởng đến thu nhập của nhiều nhân viên liên bang, cũng khiến người dân phải tìm hàng hóa giá rẻ hơn.

Walmart đang hưởng lợi từ tâm lý này. Họ tận dụng lợi thế về quy mô khổng lồ để hạ giá sản phẩm, đồng thời rót thêm hàng tỷ USD cho việc nâng lương, cải tạo cửa hàng và xây dựng hệ thống logistics cho bán hàng online. Những nỗ lực này đã phát huy hiệu quả trong bối cảnh túi tiền của nhiều người Mỹ co lại.

“Chúng tôi đang tăng thị phần, cải thiện tốc độ giao hàng và quản lý hàng tồn kho tốt. Nhìn chung, chúng tôi đang có vị thế tốt để có kết quả quý cuối năm vững mạnh”, CEO Walmart Doug McMillon cho biết trong thông báo.

Walmart đang có lợi thế lớn so với đối thủ Target, nhất là mảng tạp hóa. Khách hàng thường xuyên ghé Walmart để mua thực phẩm. Vì thế, họ đã ưu tiên nâng chất lượng hàng tươi sống những năm gần đây. Hãng cũng thu hẹp khoảng cách với Target về thời trang và đồ gia dụng.

Trong bối cảnh phải thắt chặt chi tiêu, ngày càng nhiều người chọn Walmart thay vì Target, kể cả tầng lớp thu nhập trung bình và trung bình cao. Hãng cũng đang thu hút nhóm khách hàng thu nhập thấp từ các chuỗi bán hàng giảm giá như Dollar General.

Tình hình kinh doanh của Walmart thường được coi là chỉ báo cho hoạt động tiêu dùng tại Mỹ. Mỗi tuần, 255 triệu người mua sắm tại các cửa hàng hoặc đặt hàng trực tuyến từ hãng bán lẻ này trên toàn cầu. 90% dân số Mỹ sống trong phạm vi 16 km tính từ cửa hàng Walmart gần nhất. Hãng vốn nổi tiếng với khả năng kiểm soát chi phí quyết liệt hơn các công ty khác nhằm giữ giá thấp.

Ver2Solution theo CNN, CNBC

Continue Reading

Quốc Tế

Black Friday kỳ lạ ở Mỹ

Published

on

Các cửa hàng tại Mỹ lo lắng về biên lợi nhuận nếu giảm giá hàng hóa dịp Black Friday, trong bối cảnh thuế quan đang bào mòn hoạt động kinh doanh, một Black Friday kỳ lạ ở Mỹ.

Những năm trước, cửa hàng Yun Hai Taiwanese Pantry ở New York, Mỹ giảm giá 15% vào ngày Black Friday, xem chương trình khuyến mãi thường niên này là “một phần không thể thiếu”.

Tuy nhiên năm nay, nhà sáng lập Lisa Cheng Smith chia sẻ với CBS News rằng bà không chắc có thể giảm giá bao nhiêu do chi phí hoạt động đã bị đội lên cao dưới áp lực của thuế quan.

Nhà bán lẻ này chuyên nhập khẩu hàng hóa từ Đài Loan (Trung Quốc). Khi thuế quan của Mỹ đối với các sản phẩm từ Đài Loan và các thị trường châu Á khác tăng lên, chi phí của Yun Hai đã tăng 20-50% so với cùng kỳ năm ngoái.

“Liệu chúng tôi có nên khuyến mãi ít hơn để duy trì biên lợi nhuận, hay vẫn áp dụng mức khuyến mãi mà khách hàng mong đợi?”, Lisa Cheng Smith trăn trở.

Thực tế, đối với các chủ doanh nghiệp nhỏ như bà, quyết định tưởng nhỏ này có thể tạo nên sự khác biệt lớn. “Kết quả kinh doanh từ tháng 10 đến tháng 12 tương đương với doanh số cả năm, vì vậy quyết định vào mùa lễ này càng có rủi ro cao hơn”, bà nói.

Các chuyên gia bán lẻ cũng đồng ý rằng mức giảm giá vào dịp Black Friday năm nay có thể thấp hơn khi các nhà bán lẻ và doanh nghiệp sản xuất chịu ảnh hưởng bởi chi phí thuế quan.

“Đương nhiên sẽ có giảm giá và khuyến mãi vì đó là ý nghĩa của ngày Black Friday. Rất ít nhà bán lẻ muốn bỏ lỡ dịp này, nhưng tôi nghĩ họ sẽ chọn lọc hơn trong việc giảm giá”, Neil Saunders, Giám đốc điều hành kiêm nhà phân tích bán lẻ tại GlobalData, nói với CBS News.

Dan Peskorse, chủ sở hữu Upstream Brands, doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hàng hóa trên Amazon và các trang thương mại điện tử khác, cũng cho biết chi phí thuế quan tăng cao buộc ông phải xem xét lại chiến lược Black Friday năm nay.

Peskorse chia sẻ rằng đối với các ngày Black Friday trước đây, Upstream Brands thường giảm giá tới 30% cho các sản phẩm của các thương hiệu chủ lực như ThinkFit (túi và hộp đựng đồ ăn) và Ash Harbor (đồ gia dụng).

“Đây là năm đầu tiên chúng tôi không giảm giá toàn bộ sản phẩm”, ông nói, đồng thời lưu ý rằng quyết định này hoàn toàn là do thuế quan.

Peskorse đã thực hiện nhiều biện pháp để giảm thiểu tác động của thuế quan, nhưng ông cho rằng cách hữu hiệu duy nhất để kiểm soát chi phí và bảo toàn lợi nhuận là loại bỏ các chương trình giảm giá.

Theo nhà kinh tế trưởng Gregory Daco của EY-Parthenon, mức thuế quan trung bình của Mỹ đã tăng gấp 7 lần trong năm nay và chạm mốc 16,6%. Ông lưu ý rằng mức thuế cao hơn này đang đẩy giá hàng nhập khẩu lên cao khi các nhà bán lẻ chuyển một phần chi phí sang người mua sắm.

Black Friday anh 1
Biểu đồ: CBS News.

Bên cạnh áp lực thuế quan, nhiều doanh nghiệp cũng đang phải vật lộn với tình trạng người tiêu dùng thu nhập thấp thắt chặt chi tiêu.

“Tôi nghĩ rằng tình hình sẽ trở nên tồi tệ hơn khi chúng ta bước vào mùa mua sắm sắp tới”, Sonia Lapinsky, nhà phân tích bán lẻ tại công ty tư vấn quản lý AlixPartners, cho biết. “Dữ liệu cho thấy người tiêu dùng đang giảm chi tiêu cho kỳ nghỉ lễ năm nay. Thay vào đó, họ giữ tiền và đầu tư vào những khoản thiết yếu”.

Bà nói thêm rằng giảm giá là một công cụ mạnh mẽ để khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu.

“Đó là cách duy nhất các nhà bán lẻ có thể thu hút người tiêu dùng, bởi họ không thể cưỡng lại sức hút của việc săn sale”, Lapinsky nói. “Vì vậy, đây sẽ là một mùa kinh doanh kỳ lạ. Nếu các nhà bán lẻ làm sai, họ sẽ đánh mất cơ hội bán hàng lớn nhất trong năm”.

Ver2Solution theo Znews

Continue Reading

Quốc Tế

Làn sóng sa thải tấn công gen Z

Published

on

Năm 2025 tưởng chừng yên ả với xu hướng “án binh bất động”, nhưng các đợt sa thải từ tập đoàn lớn đang giáng mạnh vào Gen Z, khiến nhóm này thiệt hại thu nhập và kéo giảm tiêu dùng toàn thị trường, làn sóng sa thải tấn công gen Z.

Trong năm 2024 và phần lớn năm 2025, “no hire, no fire” (không tuyển dụng, không sa thải) là cụm từ được giới nhân sự và tài chính dùng để mô tả trạng thái “đóng băng” kỳ lạ của thị trường lao động. Đó là một thế cân bằng mong manh: Doanh nghiệp không mở rộng tuyển mới, nhưng cũng ngại sa thải vì sợ thiếu người khi kinh tế hồi phục.

Tuy nhiên, sự bình yên giả tạo đó đang bị xé toạc vào những tháng cuối năm. Hàng loạt thông báo cắt giảm nhân sự từ các “gã khổng lồ” như Amazon, UPS hay Target đang phát đi tín hiệu đáng báo động: Thời kỳ an toàn đã kết thúc, và chúng ta đang chuyển sang giai đoạn khắc nghiệt hơn: Không tuyển, nhưng bắt đầu đuổi.

Khi “bức tường lửa” rạn vỡ

Heather Long, chuyên gia kinh tế trưởng tại Navy Federal Credit Union, đã đưa ra một nhận định khiến nhiều người phải giật mình: “Mọi dấu hiệu đều cho thấy thị trường đang chuyển trạng thái. Chúng ta không còn ở giai đoạn giữ nguyên hiện trạng nữa.”

Minh chứng rõ nhất đến từ những con số biết nói. Theo hãng tư vấn Challenger, Gray & Christmas, tháng 10 vừa qua là tháng tồi tệ nhất về số lượng kế hoạch cắt giảm nhân sự được công bố kể từ năm 2003 (loại trừ giai đoạn đại dịch).

Cụ thể, Amazon vừa công bố kế hoạch sa thải 14.000 nhân viên với lý do tái cấu trúc để tập trung vào trí tuệ nhân tạo (AI). Cùng lúc đó, UPS thông báo giảm tới 48.000 nhân sự so với cùng kỳ năm trước. Target và Paramount Skydance cũng không đứng ngoài cuộc chơi “thắt lưng buộc bụng” này.

John Challenger, CEO của Challenger, Gray & Christmas, nhận định thẳng thắn: “Không còn nghi ngờ gì nữa, bức tranh đã thay đổi. Giai đoạn an toàn đã là quá khứ. Đây là những đợt sa thải lớn, loại hình chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thực sự có biến động cấu trúc.”

Điều khiến các chuyên gia lo ngại không chỉ là số người bị sa thải tăng lên, mà là cánh cửa tìm việc mới gần như bị đóng chặt.

Giáo sư kinh tế Robert Shimer (Đại học Chicago) chỉ ra rằng, thị trường lao động đang “tăng trưởng rất chậm hoặc đi ngang”. Tỷ lệ tuyển dụng (hiring rate) đã giảm mạnh từ năm 2022 và hiện chỉ còn khoảng 3,2% – mức thấp tương đương thời kỳ khủng hoảng COVID-19.

Tại sao điều này lại nguy hiểm? Bởi vì trong một nền kinh tế khỏe mạnh, sự biến động là cần thiết. Người lao động nhảy việc để tăng thu nhập, doanh nghiệp tuyển mới để mở rộng. Nhưng hiện nay, dòng chảy đó đã tắc nghẽn.

Thống đốc Fed Chris Waller chia sẻ sự lo ngại: “Cách đây vài tuần, người ta nói về việc giữ quân. Giờ đây, họ bắt đầu nói về sa thải. Có thể do AI, có thể do chi phí, nhưng dù lý do là gì, sự cân bằng đã mất”.

Gen Z – nạn nhân lớn nhất của “thế hệ mắc kẹt”

Nếu những nhân sự cấp cao lo lắng về việc mất ghế, thì gen Z (nhóm lao động từ 13-28 tuổi) lại đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiện sinh: Không thể bước chân vào thị trường.

Đối với người lao động trẻ chưa có tài sản tích lũy, thị trường lao động là tất cả. Khi thị trường đóng băng, họ mất đi cơ hội gia nhập, mất đi cơ hội nhảy việc để tăng lương và tích lũy kỹ năng.

Oxford Economics vừa đưa ra một chẩn đoán chính thức và đau lòng: “Thế hệ trẻ không ổn”.

Báo cáo phân tích cho thấy, trong bối cảnh các doanh nghiệp đóng cửa tuyển dụng, người trẻ thiếu kinh nghiệm là nhóm bị tổn thương nặng nề nhất. Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm 16-19 tuổi đã vọt lên 14%, và nhóm 19-24 tuổi là 9% – cao hơn nhiều mức trung bình quốc gia.

Grace Zwemmer, chuyên gia kinh tế tại Oxford Economics, giải thích: “Người lao động trẻ thường hưởng lợi từ việc nhảy việc để tăng lương và thăng tiến nhanh ở giai đoạn đầu sự nghiệp. Nhưng chu kỳ này đã bị phá vỡ. Họ không thể nhảy việc, không được tăng lương, và tệ hơn là không tìm được việc làm đầu đời”.

Hệ quả là một hiện tượng xã hội đáng buồn: Gen Z buộc phải sống dựa vào cha mẹ lâu hơn. Ước tính có khoảng 1 triệu người trẻ tại Mỹ đang sống cùng gia đình so với xu hướng trước đại dịch. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến lòng tự trọng của họ mà còn giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế: Khoảng 12 tỷ USD tiêu dùng đã “bốc hơi” mỗi năm do nhóm này không chi tiêu cho nhà ở, nội thất và các dịch vụ đi kèm.

Nguyên nhân của làn sóng sa thải và đóng băng tuyển dụng lần này có sự khác biệt so với các cuộc suy thoái trước.

Thứ nhất là sự trỗi dậy của AI. Như trường hợp của Amazon, đầu tư vào AI giúp họ tối ưu hóa vận hành và giảm phụ thuộc vào nhân sự con người. Theo Indeed, khoảng 25% nhân viên công nghệ cho biết họ mất việc hoặc bị ảnh hưởng trực tiếp bởi AI trong 2 năm qua.

Thứ hai là áp lực chi phí và thay đổi chuỗi cung ứng. UPS chịu ảnh hưởng từ việc Amazon tự xây dựng đội giao hàng và các biến động thuế quan. Carter’s – hãng thời trang trẻ em – cũng phải đóng cửa 150 cửa hàng do chi phí nhập khẩu tăng cao.

Lời khuyên cho người lao động: Phòng thủ là thượng sách

Dù tỷ lệ thất nghiệp tổng thể vẫn ở mức thấp theo tiêu chuẩn lịch sử (khoảng 4,3%), nhưng cảm nhận thực tế của người lao động lại rất khác. Khảo sát của CBS News cho thấy 52% người Mỹ đánh giá thị trường lao động hiện tại là “tệ”.

Với bối cảnh “cửa vào hẹp, cửa ra rộng” như hiện nay, các chuyên gia tài chính khuyên rằng:

Với nhân sự đang có việc: Đây không phải thời điểm lý tưởng để “nhảy việc” trừ khi bạn có một lời mời chắc chắn trong tay. Sự an toàn nên được đặt lên hàng đầu.

Với gen Z và người tìm việc: Hãy chuẩn bị tinh thần cho một cuộc chiến dài hơi. Cần linh hoạt chấp nhận các công việc tạm thời hoặc trái ngành để duy trì dòng tiền và tích lũy kỹ năng, thay vì chờ đợi một vị trí “trong mơ” vốn đang ngày càng khan hiếm.

Thị trường lao động đang nứt vỡ, và cho đến khi những mảnh ghép được sắp xếp lại, có thể là cuối năm 2025, sự thận trọng chính là “tấm khiên” tốt nhất cho túi tiền và sự nghiệp của mỗi người.

Ver2Solution theo Fortune.com

Continue Reading

Đọc nhiều nhất

Copyright © 2024 Ver2solution.com .