Connect with us

Trong Nước

Du lịch Việt leo lên top 3 khu vực

Published

on

Sau 65 năm, du lịch Việt Nam từ “số 0” đã trở thành một trong những điểm đến đông khách nhất khu vực, chỉ sau Thái Lan và Malaysia, du lịch Việt leo lên top 3 khu vực.

“Những năm 1970, khách Tây ở Hà Nội ít lắm, không như bây giờ ra ngõ là gặp”, bà Vũ Thị Khiêm, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ của Tổng công ty Du lịch Hà Nội (Hanoitourist), nhớ lại. Bà Khiêm bắt đầu làm tại Hanoitourist từ năm 1972, được giao nhiệm vụ thử và kiểm định chất lượng món ăn trước khi mang lên phục vụ các đoàn khách quốc tế của Chính phủ những năm bao cấp. Thời kỳ này, khách nội địa du lịch trong nước “còn ít nữa là khách quốc tế”.

Sau 65 năm thành lập và phát triển, hiện tại, du lịch Việt vượt qua Singapore, vào top 3 điểm đến hút khách nhất Đông Nam Á, sau Thái Lan và Malaysia, khi đón 17,6 triệu lượt khách vào năm 2024.

Những ngày đầu đón khách

Ngày 9/7/1960 đánh dấu bước khởi đầu của du lịch Việt, khi Công ty Du lịch Việt Nam được thành lập. Khi đó, đất nước còn chia cắt, chức năng chủ yếu của ngành là phục vụ các đoàn khách quốc tế, chuyên gia, theo Cục Du lịch Quốc gia.

Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1975, Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới (1986), du lịch vẫn chưa phát triển, chính sách đón khách quốc tế còn nhiều hạn chế.

Ông Nguyễn Quốc Kỳ, hiện là Chủ tịch HĐQT Vietravel, làm tại Công ty Du lịch TP HCM (Saigontourist) vào những năm 1980, cho biết khi đó du khách hầu như không thể đi tự túc, mà phải thông qua các công ty lữ hành quốc doanh như Saigontourist, Hanoitourist. Khách muốn đến phải có thư mời, xin thị thực qua cơ quan đại diện ngoại giao, hành trình thường được sắp xếp sẵn, ít linh hoạt.

Khó khăn lớn nhất của ngành du lịch Việt Nam vào thời điểm Đổi mới là bài toán tìm kiếm nguồn khách. Thị trường gần như chỉ trông vào khách Đông Âu. Các thế hệ đầu tiên của trong ngành đã phải trăn trở, tìm cách mở cánh cửa mới như tham dự các hội chợ du lịch tại Thái Lan nhằm quảng bá và thu hút khách.

Ông Alain Tấn Huynh, 72 tuổi, người Mỹ gốc Việt, về Hà Nội vào tháng 4/1989 cho biết nếu không có giấy phép đi lại do Chính phủ cấp, ông không thể đặt khách sạn.

“Mọi chuyến bay từ Mỹ về Việt Nam khi đó đều phải qua Thái Lan xin visa rời”, ông nói. Trong khi đó, Du lịch Thái Lan lúc này “đã rất phát triển”, với dịch vụ lưu trú, ăn uống đủ tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế.

Đến Hà Nội, điều đầu tiên ông Tấn làm là tìm một tô phở, nhưng thành phố khi ấy chỉ phổ biến phở gà. Cà phê cũng khan hiếm và chỉ bán trong khách sạn. Cửa hàng trên phố chủ yếu bán nước chè và kẹo lạc.

Mark Bowyer, người Australia, lần đầu đưa 12 khách nước ngoài đến Việt Nam vào năm 1993. Mark nhớ lại đường sá tại Việt Nam thời kỳ này “rất tệ”, khách sạn của họ ở Quảng Ngãi còn chưa hoàn thiện. Tuy nhiên, Mark không nghe lời phàn nàn nào từ khách. Họ đều nghĩ đó là một cái giá rất nhỏ để được trải nghiệm Việt Nam vào thời điểm đặc biệt như thế.

Theo ông Kỳ, những năm này hệ thống lưu trú cũng chưa phát triển, số khách sạn đạt chuẩn để phục vụ khách quốc tế “chỉ đếm trên đầu ngón tay”, tập trung tại Hà Nội, TP HCM và thêm vài thành phố lớn như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang. Những cái tên quen thuộc có thể kể đến là khách sạn Rex, Majestic, Caravelle (TP.HCM), Metropole, khách sạn Thắng Lợi (Hà Nội).

Năm 1994, Mỹ tuyên bố dỡ bỏ cấm vận với Việt Nam, mở ra chương mới cho ngành du lịch. Đây cũng là thời điểm Việt Nam hội nhập nhanh chóng với thế giới khi liên tiếp tham gia các khối như ASEAN, APEC, WTO. Nguyên vụ trưởng ASEAN Đỗ Ngọc Sơn cho biết du lịch Việt Nam có hai lợi thế lớn khi gia nhập. Thứ nhất, nhờ cơ chế miễn visa trong khối, khách dễ dàng nhập cảnh Việt Nam hơn. Thứ hai, Việt Nam là nước gia nhập sau, người dân các nước khác trong khối tò mò về điểm đến mới này, vì thế cũng đổ xô đến.

Theo Cục du lịch Quốc gia, lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 1990 đạt 250.000 lượt, chủ yếu là khách công vụ. Năm 1995, năm đầu tiên sau khi dỡ bỏ cấm vận, Việt Nam đón 1,35 triệu lượt khách quốc tế, tăng gấp 5 lần so với 5 năm trước.

Về hàng không, Việt Nam thời kỳ này vẫn chưa có nhiều đường bay thẳng kết nối với các điểm đến trên thế giới. Cuối năm 2003, Việt Nam ký hiệp định hàng không với Mỹ. Tuy nhiên, phải mất gần 20 năm, đến 2021, Việt Nam mới mở được đường bay thẳng (bay thương mại) từ Việt Nam đến Mỹ, chặng TP HCM – San Francisco, nguyên nhân do rào cản pháp lý và chi phí khai thác cao.

Tháng 2/2019, Cục hàng không Liên bang Mỹ (FAA) cấp chứng chỉ giám sát an toàn hàng không cho Cục Hàng không Việt Nam. Với chứng chỉ này, các hãng hàng không trong nước chưa thể mở ngay đường bay thẳng nhưng có thể hợp tác liên danh với các hãng bay lớn của nước ngoài đang thực hiện nay thẳng đến Mỹ, mở ra cơ hội mới cho du lịch Việt.

Hơn 20 năm sau khi được bỏ cấm vận, ngành du lịch Việt mới bắt đầu hưởng thành quả từ các nỗ lực ngoại giao, mở cửa và đổi mới trong chính sách hút khách. 2016 là năm đánh dấu bước ngoặt mới, khi Việt Nam lần đầu đón lượng khách quốc tế đạt hai con số, với 10 triệu lượt khách.

Lên đỉnh cao rồi về lại ‘số 0’

Du lịch Việt bước vào thời kỳ hoàng kim năm 2019, đón kỷ lục 18 triệu lượt khách quốc tế và doanh thu đóng góp hơn 9% vào GDP. Tốc độ tăng trưởng bình quân khách quốc tế của Việt Nam đạt 22,7%, được Tổ chức Du lịch Thế giới xếp vào nhóm các quốc gia có tăng trưởng cao.

Tuy nhiên, đà tăng trưởng của ngành du lịch đã bị chặn đứng bởi đại dịch Covid-19. Việc thế giới đóng cửa biên giới đã khiến lượng khách sụt giảm nghiêm trọng, đẩy ngành du lịch từ thời kỳ hoàng kim trở về “số 0”.

Dù Việt Nam đã mở cửa trở lại để đón khách quốc tế từ ngày 15/3/2022, sự phục hồi trong năm đó vẫn rất hạn chế do nhiều thị trường nguồn quan trọng, trong đó có Trung Quốc, vẫn duy trì chính sách đóng cửa biên giới.

Phục hồi và thách thức

Từ năm 2022, Chính phủ liên tục đưa ra các chính sách nới lỏng visa, cấp e-visa cho các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến nay, Việt Nam nâng quốc gia miễn thị thực đơn phương lên 24, chủ yếu là các nước châu Âu và top thị trường gửi khách lớn đến Việt Nam như Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản.

Viện trưởng Phát triển Du lịch châu Á Phạm Hải Quỳnh đánh giá từ 2023, du lịch Việt đã “nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng và có những thành quả ấn tượng”, một phần nhờ chính sách thị thực cởi mở, nhiều lễ hội, sự kiện được tổ chức, thu hút du khách.

Cuối năm 2024, ngành du lịch Việt đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, là quốc gia có tỷ lệ phục hồi du lịch năm 2024 tốt nhất Đông Nam Á, với mức phục hồi đạt 98%. Việt Nam cũng đứng top 3 điểm đến hút khách nhất Đông Nam Á năm 2024, sau Malaysia với 38 triệu lượt khách, Thái Lan với 35,5 triệu.

CEO tập đoàn công nghệ Nvidia Jensen Huang (áo đen) giao lưu với người dân khi đi ăn khuya tại phố tây Tạ Hiện, Hà Nội hồi tháng 12/2024. Ảnh: Giang Huy

Càng ngày hình ảnh Việt Nam được nhiều du khách quốc tế biết đến hơn. Người nổi tiếng, các tỷ phú cũng bắt đầu chọn Việt Nam là điểm đến cho các chuyến du lịch, nghỉ dưỡng và tổ chức đám cưới. Những người nổi tiếng từng đặt chân đến Việt Nam phải kể đến tỷ phú Mỹ Bill Gates, tỷ phú Anh Joe Lewis, ông chủ Facebook Mark Zuckerberg.

Ngành du lịch và các điểm đến tại Việt Nam cũng bắt đầu nhận “mưa” giải thưởng từ các tổ chức uy tín trên thế giới như Tripadvisor, Sky Trax. Năm 2024, Việt Nam dành 48 giải thưởng trong khuôn khổ World Travel Awards.

Tại hội nghị tổng kết công tác năm 2024 của Bộ VHTTDL, Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá lĩnh vực du lịch là điểm sáng trong bức tranh phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, khi hoàn thành chỉ tiêu đón 17,6 triệu lượt khách quốc tế, tổng thu du lịch đạt 840.000 tỷ đồng.

8 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 14 triệu người, tăng gần 22% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn lượng khách quốc tế cả năm 2017 (12,9 triệu lượt).

Theo ông Quỳnh, Việt Nam có ba yếu tố quan trọng gồm thiên nhiên, lịch sử và văn hóa để hút khách quốc tế. Việt Nam cũng đầu tư mạnh vào hệ thống giao thông và cơ sở vật chất, nhiều tuyến đường cao tốc, sân bay, cảng biển được xây dựng giúp việc di chuyển dễ dàng hơn. Hệ thống khách sạn, resort chất lượng cao phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của mọi phân khúc khách hàng.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trương Hoàng, Trưởng khoa Du lịch và Khách sạn, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, năm 2025, ngành du lịch đã thực sự trở lại đường đua của những ngành kinh tế quan trọng nhất tại Việt Nam. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng đón khách quốc tế ở mức 20% của năm 2024, đến năm 2030 ngành có thể đón hơn 60 triệu lượt khách, vượt xa con số 50 triệu lượt trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2020-2030, bất chấp đại dịch đã kéo lùi 3-4 năm tăng trưởng.

Tuy nhiên, ông Hoàng đánh giá ngành du lịch hiện nay giống như “chiếc lò xo được tháo nén”. Do đó, để có thể tăng trưởng bền vững, ngành du lịch cần có những đánh giá, nghiên cứu về thành quả này để tìm kiếm những động lực tăng trưởng mới, bên cạnh số lượng khách quốc tế, như tiềm năng du lịch, năng lực kinh doanh, quản lý du lịch, quảng bá điểm đến.

Trong báo cáo về Chỉ số Phát triển Du lịch và Lữ hành (TTDI) của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố năm 2024, Việt Nam yếu nhất về chỉ số Ảnh hưởng kinh tế – xã hội của du lịch khi đứng thứ 115 trên 119 quốc gia, vùng lãnh thổ. Chỉ số này gồm 4 nội dung: đóng góp của Du lịch vào GDP và việc làm; tính bao trùm xã hội (mọi người cùng được hưởng lợi từ du lịch); phân bổ lợi ích kinh tế và ảnh hưởng đến phát triển bền vững.

Hai hạng mục khác Việt Nam cũng xếp thứ hạng thấp là Ưu tiên phát triển Du lịch (98/119) và Dịch vụ du lịch, cơ sở hạ tầng (80/119). Do đó, muốn ngành du lịch phát triển bền vững và mạnh mẽ, Việt Nam cần đưa ra các giải pháp để làm tăng thứ hạng của các hạng mục trên.

Ông Phạm Hải Quỳnh cho rằng lỗ hổng lớn nhất của du lịch Việt hiện nay là chất lượng dịch vụ chưa đồng đều, tính chuyên nghiệp chưa cao. Để vá được lỗ hổng này, ngành cần đầu tư vào đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên và quản lý; khuyến khích các trường đào tạo du lịch hợp tác với các doanh nghiệp để cung cấp các chương trình đào tạo bám sát thực tế.

Là người theo dõi du lịch Việt 35 năm nay, Mark Bowyer chỉ ra ngành đã thay đổi và phát triển rất nhiều. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình phát triển chính là tình trạng quá tải xây dựng, du lịch đại trà, làm suy giảm cảnh quan tự nhiên và những thứ giản dị vốn tạo nên sức hút riêng biệt của Việt Nam. Không ít điểm đến như Sa Pa, Phú Quốc hay một số vùng ven biển đang bị “bóp nghẹt” bởi các khu nghỉ dưỡng khổng lồ, khiến du khách mất đi cơ hội trải nghiệm nhịp sống chậm rãi, gần gũi cùng cộng đồng địa phương.

Người dân xem sơ duyệt diễu binh tại Hà Nội, ngày 27/8/2025. Ảnh: Ngọc Thành

Việt Nam cần cân bằng giữa phát triển hạ tầng hiện đại với việc giữ gìn “hồn cốt” của điểm đến. “Nếu không, những giá trị tạo nên sự khác biệt – cảnh sắc nguyên sơ, văn hóa đặc sắc và trải nghiệm bản địa – có nguy cơ bị chính ngành công nghiệp du lịch làm lu mờ”, Mark Bowyer nói.

Ver2Solution theo VNexpress 

Continue Reading
Click to comment

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Xu Hướng

Xu hướng các sản phẩm làm đẹp được tiêu thụ nhiều nhất đầu năm 2025

Published

on

Ver2Solution – Dựa trên tổng hợp dữ liệu, thống kê phân tích số liệu thị trường đầu năm 2025, các xu hướng và dự đoán thị trường mỹ phẩm làm đẹp trong năm 2025, dưới đây là top xu hướng làm đẹp được yêu thích và các sản phẩm bán chạy nhất trên các nền tảng online tại Việt Nam. Xu hướng các sản phẩm làm đẹp được tiêu thụ nhiều nhất đầu năm 2025.

Serum chứa Niacinamide và Vitamin C: Đây là hai thành phần “vàng” trong chăm sóc da, được ưa chuộng nhờ khả năng làm sáng da, mờ thâm nám và se khít lỗ chân lông. Người tiêu dùng online đặc biệt tìm kiếm các sản phẩm có nồng độ phù hợp, lành tính và hiệu quả rõ rệt.

Kem chống nắng lai dưỡng da: Người tiêu dùng ngày càng ưu tiên các sản phẩm đa năng để tối giản quy trình skincare. Kem chống nắng không chỉ có khả năng bảo vệ da khỏi tia UV mà còn được bổ sung thêm các thành phần dưỡng ẩm, chống lão hóa, và nâng tông nhẹ, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.

Mặt nạ ngủ collagen dạng gel: Nhu cầu phục hồi da ban đêm tăng cao, khiến các loại mặt nạ ngủ trở thành sản phẩm được săn đón. Dạng gel với công nghệ khóa ẩm, cùng các thành phần collagen hoặc HA giúp da căng mọng, phục hồi nhanh chóng sau một ngày dài.

Sữa rửa mặt có chiết xuất thiên nhiên: Xu hướng “Clean Beauty” (làm đẹp sạch) và “mỹ phẩm thuần chay” ngày càng mạnh mẽ. Các loại sữa rửa mặt từ chiết xuất trà xanh, rau má, bí đao… được người tiêu dùng tìm kiếm vì tính an toàn, lành tính và khả năng làm sạch sâu mà không gây khô da.

Tẩy tế bào chết vật lý và hóa học: Tẩy da chết là bước quan trọng để có làn da sáng khỏe. Các sản phẩm tẩy tế bào chết vật lý từ thiên nhiên (như cà phê, dừa) và các loại tẩy tế bào chết hóa học chứa AHA/BHA (được khuyên dùng bởi các chuyên gia) đều có doanh số tốt trên các sàn thương mại điện tử.

Son kem lì với màu sắc tự nhiên (Mocha Mousse Lips): Các thỏi son lì với màu sắc gần gũi như đỏ gạch, nâu đất, cam đất, hay các tông berry được ưa chuộng hơn cả. Chúng giúp tạo nên vẻ ngoài tự nhiên, quyến rũ và phù hợp với nhiều phong cách trang điểm khác nhau.

Sản phẩm chăm sóc cơ thể toàn diện: Thay vì chỉ chăm sóc da mặt, người tiêu dùng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến làn da toàn thân. Các sản phẩm như sữa tắm, kem dưỡng thể, kem tay, và mặt nạ dưỡng thể từ các thương hiệu “clean” hoặc có hương liệu tự nhiên đang bán rất chạy.

Dụng cụ làm đẹp tại nhà (máy rửa mặt, máy massage): Công nghệ làm đẹp tại nhà đang trở thành xu hướng. Các thiết bị như máy rửa mặt, máy massage mặt, hay các loại máy đẩy tinh chất được người tiêu dùng đầu tư để nâng cấp quy trình chăm sóc da, giảm bớt nhu cầu đến spa.

Serum và kem dưỡng phục hồi da: Với sự phổ biến của các liệu pháp treatment (treatment da), nhu cầu phục hồi da ngày càng cao. Các sản phẩm có chứa Ceramide, Vitamin B5, Peptide… giúp củng cố hàng rào bảo vệ da, làm dịu và phục hồi da sau khi sử dụng các hoạt chất mạnh.

Sản phẩm trị mụn và ngừa thâm: Mụn vẫn là vấn đề da liễu phổ biến. Các sản phẩm đặc trị mụn (như kem chấm mụn, gel rửa mặt trị mụn) và các loại serum ngừa thâm, làm sáng da (chứa AHA, vitamin C) luôn có lượng tiêu thụ lớn, đặc biệt là ở lứa tuổi học sinh, sinh viên.

Ver2Solution tổng hợp phân tích số liệu toàn thị trường đưa ra Top 10 nhãn hiệu mỹ phẩm làm đẹp bán chạy online tại Việt Nam năm 2025.

1. La Roche-Posay: Thương hiệu dược mỹ phẩm hàng đầu từ Pháp này vẫn duy trì vị thế dẫn đầu. Các sản phẩm đặc trị mụn, phục hồi da, và kem chống nắng của La Roche-Posay luôn nằm trong top bán chạy nhờ sự tin tưởng của người tiêu dùng và các chuyên gia da liễu.

2. Cocoon: Thương hiệu mỹ phẩm thuần chay Việt Nam này tiếp tục gây bão trên các sàn thương mại điện tử. Với triết lý “mỹ phẩm từ thực vật Việt Nam”, Cocoon chinh phục khách hàng bằng các sản phẩm chiết xuất từ thiên nhiên như cà phê Đắk Lắk, bưởi, bí đao… phù hợp với xu hướng làm đẹp bền vững và an toàn.

3. L’Oréal Paris: Là một trong những “ông lớn” của ngành công nghiệp mỹ phẩm, L’Oréal Paris có lợi thế về sự đa dạng sản phẩm, từ chăm sóc da, trang điểm đến chăm sóc tóc. Các sản phẩm bình dân nhưng hiệu quả cao như nước tẩy trang micellar water, kem nền, và son môi của hãng luôn có doanh số ổn định.

4. CeraVe: Thương hiệu dược mỹ phẩm đến từ Mỹ này đang dần trở thành “cái tên vàng” trong làng skincare. Với các sản phẩm tập trung vào việc phục hồi hàng rào bảo vệ da và các thành phần cốt lõi như Ceramide, Niacinamide, CeraVe được người tiêu dùng tin tưởng, đặc biệt là những người có làn da nhạy cảm hoặc đang điều trị.

5. Maybelline New York: Nữ hoàng của các sản phẩm trang điểm bình dân vẫn giữ vững vị trí hàng đầu. Các sản phẩm như mascara, kem nền, và chì kẻ mày của Maybelline được giới trẻ săn đón nhờ giá cả phải chăng, chất lượng tốt và thường xuyên cập nhật theo xu hướng mới nhất.

6. MAC Cosmetics: Mặc dù ở phân khúc cao cấp hơn, MAC vẫn là một trong những thương hiệu trang điểm bán chạy online nhờ các sản phẩm mang tính biểu tượng như son thỏi và phấn nền. Sự phổ biến của MAC trên các nền tảng như TikTok và Instagram cũng góp phần thúc đẩy doanh số.

7. M.O.I Cosmetics: Thương hiệu mỹ phẩm của ca sĩ Hồ Ngọc Hà tiếp tục gặt hái thành công với các sản phẩm trang điểm chất lượng cao, thiết kế sang trọng và chiến lược marketing hiệu quả. Các sản phẩm của M.O.I thường xuyên “cháy hàng” trên các sàn thương mại điện tử mỗi khi ra mắt sản phẩm mới.

8. Lemonade: Là một trong những thương hiệu mỹ phẩm nội địa thành công nhất, Lemonade của Quách Ánh nổi tiếng với các sản phẩm trang điểm chuyên nghiệp, đặc biệt là son môi, kem nền và các sản phẩm đa năng. Lemonade được đánh giá cao về chất lượng sản phẩm và khả năng nắm bắt xu hướng nhanh nhạy.

9. Bioderma: “Nước tẩy trang quốc dân” của Bioderma vẫn là một trong những sản phẩm bán chạy nhất trên các sàn thương mại điện tử. Thương hiệu Pháp này được người tiêu dùng Việt Nam tin dùng vì sự lành tính, an toàn và hiệu quả làm sạch vượt trội, phù hợp với mọi loại da, kể cả da nhạy cảm.

10. Eucerin: Là thương hiệu dược mỹ phẩm có tiếng đến từ Đức, Eucerin được người tiêu dùng tin tưởng nhờ các sản phẩm chuyên biệt dành cho da mụn, da lão hóa và da nhạy cảm. Các sản phẩm của Eucerin thường được các bác sĩ da liễu khuyên dùng và có doanh số tốt trên các kênh online chính hãng.

Ver2Solution  Research

Continue Reading

Trong Nước

Phí giao dịch của sàn thương mại điện tử cần được Nhà nước quản lý và chống độc quyền

Published

on

Ông Nguyễn Hòa Bình, người sáng lập kiêm Chủ tịch NextTech Group, bày tỏ trước tình trạng tăng phí đồng loạt của nhiều sàn thương mại điện tử. Ý kiến trên của ông Bình nhanh chóng thu hút nhiều bình luận đồng tình của cộng đồng trực tuyến. Phí giao dịch của sàn thương mại điện tử cần được Nhà nước quản lý và chống độc quyền.

Chị Huyền Nguyễn, một tiểu thương trên sàn thương mại điện tử, cho biết với phí sàn 20 -35%, lợi nhuận gần như không còn: “Tôi nhận 7- 8 cũng chỉ muốn bán 10. Đóng thuế về nhà nước 1,5% tôi hoàn toàn ủng hộ, từ tiền đó Nhà nước lo cho phúc lợi người dân chứ không thiệt”, chị này nói.

Nhiều người tiêu dùng và nhà bán lẻ thậm chí cho rằng cần có một sàn thương mại điện tử “made in Việt Nam” xứng tầm để cân bằng lợi ích cho cả nhà bán trong nước.

Trong quá khứ, một số nền tảng Việt Nam như Sendo, Tiki đã từng giữ vị trí quan trọng, nhưng đến nay vẫn khó bứt phá trước sức mạnh về vốn và hệ sinh thái toàn cầu của các ông lớn ngoại.

Trong đó, cái tên Tiki gần như đang mờ nhạt trên chiếc bánh thị phần ngay trên sân nhà. Còn Sendo hồi đầu năm nay đã chọn dừng hoạt động thương mại điện tử rộng lớn để tập trung hoàn toàn vào hàng tạp hóa trực tuyến.

Hiện nay, phí hoa hồng trên các sàn giao dịch thương mại điện tử vốn không giống nhau và phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mỗi sàn theo từng thời kỳ. Ngoài phí giao dịch, nhà bán còn phải chi cho quảng cáo, chiết khấu khuyến mại… khiến biên lợi nhuận ngày càng mỏng. Việc một số sàn tăng phí gấp 2–3 lần so với trước trong năm nay đã đẩy nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ rơi vào thế khó.

Trong khi đó, hàng nhập khẩu trên các sàn thương mại điện tử ngày càng chiếm được ưu thế ở phân khúc sản phẩm giá rẻ, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng phổ thông với lợi thế về giá thành cạnh tranh và mẫu mã phong phú, theo Metric.

Trên Shopee, dù thị phần tổng thể chỉ đạt 6%, nhóm hàng nhập khẩu vẫn duy trì sức tiêu thụ tốt nhờ mức giá trung bình thấp, khoảng 45,625 đồng/sản phẩm. Điều này tạo ra thách thức rõ rệt cho nhà bán nội địa trong việc duy trì sức cạnh tranh, thúc đẩy nhu cầu đầu tư vào chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi và tốc độ giao hàng để giữ chân khách hàng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Việt Nam hiện là một trong những thị trường thương mại điện tử phát triển nhanh nhất Đông Nam Á. Metric.vn dự báo, doanh thu toàn thị trường năm 2025 sẽ đạt khoảng 387,5 nghìn tỷ đồng, tăng 21,5% so với năm 2024. Trong 6 tháng đầu năm nay, doanh số đã ghi nhận 202,3 nghìn tỷ đồng, tăng tới 41,52% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy vậy, đằng sau sự tăng trưởng ấn tượng là sự đào thải mạnh mẽ. Số lượng shop phát sinh đơn hàng tiếp tục giảm, với hơn 80.000 shop biến mất so với 6 tháng đầu năm 2024 và hơn 55.000 shop so với 6 tháng cuối năm 2024. Xu hướng này cho thấy cuộc chơi thương mại điện tử đang dần tập trung vào nhóm nhà bán lớn, có khả năng duy trì đơn hàng ổn định và đủ tiềm lực chịu được phí cao.

Trong bối cảnh đó, đề xuất của ông Nguyễn Hòa Bình về việc đưa phí giao dịch thương mại điện tử vào danh mục quản lý giá và chống độc quyền càng trở nên đáng chú ý.

Tại nhiều quốc gia, cơ quan quản lý đã chủ động can thiệp nhằm ngăn chặn sự lạm dụng của các nền tảng lớn. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu (EU) ban hành Đạo luật Thị trường Kỹ thuật số (DMA), buộc các “gã khổng lồ” như Amazon, Apple, Google phải minh bạch về chính sách phí và không được chèn ép nhà bán.

Ở Ấn Độ, chính phủ cũng tăng cường giám sát hoạt động thu phí của Amazon và Flipkart để bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng.

Còn Việt Nam, Luật Cạnh tranh năm 2018, tại Điều 27 cũng đã quy định cấm các doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh để áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng…

Ver2Solution theo Vneconomy.vn
Continue Reading

Trong Nước

Thương hiệu Việt trước sức ép hàng giả

Published

on

Theo các doanh nghiệp, thương hiệu Việt trước sức ép hàng giả, hàng ngoại giá rẻ và rào cản số hóa đang trực tiếp đe dọa sức cạnh tranh thương hiệu nội.

Phát biểu tại hội nghị “Tăng trưởng thị phần – định vị thương hiệu Việt trên không gian số” ngày 9/9, ông Bông Hoa Việt, Trợ lý Tổng giám đốc Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh, cho biết sau hơn nửa thế kỷ xây dựng thương hiệu, công ty vẫn đối mặt với “cơn đau đầu” mang tên hàng giả, hàng nhái. Tình trạng này khiến người tiêu dùng nhầm lẫn, thiệt hại kép cho khách hàng lẫn doanh nghiệp.

“Khách hàng tìm đến chúng tôi phàn nàn về chất lượng, nhưng kiểm tra mới phát hiện đó là sản phẩm nhái gắn mác Bình Minh”, ông nói. Chỉ cần thêm một ký tự hay cụm từ phía sau tên thương hiệu, hàng kém chất lượng dễ dàng trà trộn ra thị trường. Dù công ty nhiều lần kiến nghị, thậm chí khởi kiện, việc xử lý vẫn chậm, khiến uy tín doanh nghiệp dày công xây dựng hơn 50 năm bị bào mòn.

Thực tế này không chỉ diễn ra ở ngành nhựa. Nhiều thương hiệu trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, phân bón cũng rơi vào cảnh tương tự. Ông Nguyễn Đặng Hiến, Tổng giám đốc Bidrico, cho rằng nếu doanh nghiệp không chủ động đăng ký bảo hộ nhãn hiệu trong và ngoài nước, nguy cơ mất thương hiệu là rất lớn. Ông nhắc lại trường hợp gạo ST25 bị doanh nghiệp nước ngoài đăng ký nhãn hiệu trước cách đây vài năm và cho rằng đây là bài học đắt giá với các công ty nội.

Trong khi hàng giả tiếp tục hoành hành, nhà sản xuất trong nước còn chịu sức ép từ hàng nhập khẩu. Ông Lư Nguyễn Xuân Vũ, Chủ tịch Hội Doanh nhân Sài Gòn, cho biết hàng Trung Quốc chỉ mất vài ngày để vào Việt Nam, với chi phí rẻ hơn 10-20%. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp trong nước hạn chế về nhân sự số, kỹ năng bán hàng trực tuyến và marketing. “Nếu không bước vào sân chơi số, chắc chắn chúng ta sẽ tụt hậu”, ông nói.

Ở góc độ bán lẻ, ông Nguyễn Ngọc Thắng – Phó tổng giám đốc Saigon Co.op, cho rằng sức mua trong nước vẫn ổn định, dự kiến toàn thị trường tăng trưởng hơn 10% năm nay. Tuy nhiên, ông lưu ý, chỉ khi thương hiệu được xây dựng trên bản sắc và niềm tin, hàng Việt mới đứng vững.

“Thương hiệu là linh hồn của sản phẩm, giúp hàng Việt khác biệt trong mắt người tiêu dùng”, ông nói, đồng thời cho rằng xu hướng tiêu dùng xanh mở ra cơ hội cho doanh nghiệp gắn trách nhiệm xã hội với phát triển bền vững.

Riêng với TP HCM, theo TS Đinh Thế Hiển, thương mại – dịch vụ vốn là động lực tăng trưởng của thành phố nhưng nhiều năm qua tốc độ chưa vượt 10%. Trong đó, thương mại điện tử chiếm khoảng 10% tổng mức bán lẻ hàng hóa – ghi nhận mức tăng trưởng gấp đôi. Song kênh bán truyền thống vẫn gặp rào cản lớn về chi phí chuyển đổi số và thương hiệu. “Muốn nâng vị thế, doanh nghiệp phải đầu tư vào sáng tạo nội dung, trải nghiệm khách hàng và giá trị bền vững”, ông phân tích.

Ở khía cạnh chính sách, ông Nguyễn Anh Đức – Phó giám đốc Sở Công Thương TP HCM kiêm Chủ tịch Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, cho rằng thương mại số mở ra cơ hội lớn nhưng Việt Nam cần bước đi bài bản hơn. Ông dẫn chứng, Amazon, Alibaba đều mở rộng sang bán lẻ trực tiếp, trong khi Walmart từ thuần offline, nay doanh thu online chiếm gần một nửa. Với Việt Nam, thương mại điện tử vẫn manh mún, nhiều sàn thua lỗ, hàng giả tràn lan, tỷ lệ bán online mới đạt khoảng 10% và chủ yếu phục vụ khách hàng cũ. “Không có thương hiệu Việt nào thành công nếu không có chỗ đứng tại TP HCM”, ông nói.

Phó chủ tịch UBND TP HCM Nguyễn Văn Dũng cho rằng hàng hóa xâm phạm sở hữu trí tuệ gây thiệt hại kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng. Ông khẳng định chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số là yêu cầu cấp thiết để tạo môi trường kinh doanh minh bạch. Lãnh đạo thành phố kêu gọi doanh nghiệp định vị thương hiệu với bản sắc riêng, có chiến lược tài chính và nguồn lực đủ mạnh để vươn xa.

Ver2Solution theo VNexpress 

Continue Reading

Đọc nhiều nhất

Copyright © 2024 Ver2solution.com .