Khi số lượng quy định về điều kiện kinh doanh quá nhiều mà chất lượng lại thấp chính là biểu hiện rõ nét của tư duy “không quản được thì cấm”, tạo ra hệ thống pháp luật thiên về kiểm soát hơn là kiến tạo, tạo cơ hội và không gian phát triển. Yêu cầu của Tổng Bí thư và quyền tự do kinh doanh của Nhân dân.
Có thể xóa tan thành tựu của Nghị định 15/2018/NĐ-CP
Trong cuộc tọa đàm gần đây về sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật An toàn thực phẩm, một vị đại diện doanh nghiệp FDI đã bày tỏ sự bất lực rằng: “Như vậy, quy định trong dự thảo có thể xóa tan thành tựu của Nghị định 15/2018/NĐ-CP, thậm chí gây tốn kém hơn nữa”.
Để chứng minh, ông phân tích, dự thảo quy định tổng cộng 31 nội dung doanh nghiệp phải tự công bố, cao hơn nhiều so với 5 nội dung, theo Nghị định 15 hiện hành.
Bên cạnh đó, vẫn theo Nghị định 15, doanh nghiệp được sản xuất, kinh doanh ngay sau khi nộp hồ sơ. Trong khi đó, theo dự thảo sửa đổi, sau khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, trong 7 ngày cơ quan quản lý sẽ đăng tải lên website, và trong vòng 3 tháng sau khi đăng tải sẽ soát xét hồ sơ. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp chỉ được sản xuất sau 3 tháng 7 ngày.
Xin kể lại vắn tắt tinh thần cải cách của Nghị định 15. Trước đây, Nghị định 38/2012/NĐ-CP về an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế yêu cầu doanh nghiệp phải xin cấp Giấy tiếp nhận bản công bố hoặc Giấy xác nhận công bố thì mới được tiến hành sản xuất, kinh doanh.
Quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm quả là gian nan. Ảnh: Nam Khánh
CIEM ước tính mỗi năm có từ 35.000 đến 45.000 lượt doanh nghiệp phải làm thủ tục này. Trung bình, doanh nghiệp sẽ mất khoảng 4 tháng với chi phí 10 triệu đồng đối với thực phẩm thường và 30 triệu đồng đối với thực phẩm chức năng để hoàn tất thủ tục chứng nhận và công bố sự phù hợp.
Yêu cầu này, cùng rất nhiều yêu cầu khác, đã gây bức xúc cho cộng đồng doanh nghiệp trong một thời gian dài.
Sau nhiều nỗ lực của Chính phủ, Nghị định 15/2018/NĐ-CP được ban hành thay thế Nghị định 38, với phương pháp quản lý an toàn thực phẩm chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Thay vì phải xin xác nhận từ cơ quan Nhà nước, nay các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm được tự công bố. Sự thay đổi này giúp giảm đến 90% chi phí hành chính, tiết kiệm 10 triệu ngày công và 3.700 tỷ đồng mỗi năm cho doanh nghiệp, theo tính toán của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham).
Kể lại câu chuyện này để thấy quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm quả là gian nan. Lẽ ra, doanh nghiệp cần tập trung nguồn lực để nghiên cứu, phát triển, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, hơn là suốt ngày phải lo về thủ tục hành chính như thế này.
Điều kiện kinh doanh núp bóng tiêu chuẩn, quy chuẩn
Điều kiện kinh doanh đã nở rộ như nấm sau mưa, như chúng tôi đã phân tích trong bài “Bảo vệ quyền tự do kinh doanh”. Trên thực tế, các điều kiện kinh doanh còn “núp bóng” hoặc “ẩn” trong tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Một số quy chuẩn kỹ thuật yêu cầu doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất nhất định, đáp ứng diện tích tối thiểu của các cơ sở sản xuất, hay yêu cầu chứng chỉ hành nghề của nhân sự ở một số bộ phận… khi sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ.
Những quy chuẩn “núp bóng” đó, về bản chất, chính là các điều kiện kinh doanh. Chẳng hạn, từng có đề xuất quy định điều kiện về diện tích, cơ sở vật chất… đối với siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi và trung tâm thương mại. Không rõ những quy định như trên có mục tiêu quản lý nhà nước ra sao, nhưng rõ ràng chúng ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan, trước hết là những người đầu tư kinh doanh thương mại.
VCCI tính toán, mỗi năm có khoảng 20 luật, gần 150 nghị định và khoảng 600 thông tư được ban hành. Bên cạnh đó là hàng nghìn công văn điều hành, trong đó không ít công văn có chứa đựng quy phạm pháp luật.
Văn bản hướng dẫn thi hành các luật quá nhiều về số lượng, chồng chéo, trùng lặp, hay thay đổi về nội dung, gây nguy cơ tùy ý và khó dự đoán trong thực thi, tạo rủi ro cho doanh nghiệp và người dân.
Câu hỏi đặt ra là liệu có xuất hiện tình trạng khôi phục lại các điều kiện kinh doanh đã được bãi bỏ, hoặc ban hành mới các quy định bất hợp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật như trường hợp dự thảo Nghị định 15 nói trên – trong “rừng” văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, gây cản trở cho doanh nghiệp?.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong bài viết “PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN – ĐÒN BẨY CHO MỘT VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG” rằng: Kinh tế tư nhân phải là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia… Kinh tế tư nhân cần phấn đấu trở thành lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, để đạt mục tiêu đóng góp khoảng 70% GDP vào năm 2030…
Ông khẳng định, điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong hoạch định chính sách,… Vì thế, Nhà nước phải có phương thức quản lý phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân. Cần xóa bỏ mọi rào cản, minh bạch hóa chính sách, loại bỏ lợi ích nhóm trong hoạch định chính sách và phân bổ nguồn lực, không phân biệt đối xử giữa khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong mọi chính sách.
Đồng thời, cần nhất quán quan điểm “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, xây dựng chính sách làm yên lòng các nhà đầu tư, doanh nghiệp và doanh nhân. Quan trọng hơn, phải tạo dựng niềm tin mạnh mẽ giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, qua đó khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới sáng tạo và tham gia vào các lĩnh vực kinh tế có tính chiến lược.
Doanh nghiệp, người dân trong nước gặp quá nhiều rào cản kinh doanh như vậy thì làm sao phát triển, lớn lên để trở thành động lực quan trọng nhất?.
Cũng xin trích dẫn những phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm đang tạo nên sự thay đổi lớn để đất nước bước vào kỷ nguyên mới:
Thứ nhất, thể chế hiện nay là “điểm nghẽn của điểm nghẽn” đối với phát triển; đột phá thể chế là “đột phá của đột phá”.
Thứ hai, phải từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” trong xây dựng pháp luật; đề cao phương pháp “quản lý theo kết quả”… và chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, tạo không gian mới và động lực phát triển.
Thứ ba, luật pháp không chỉ để quản lý mà còn phải khuyến khích đổi mới, sáng tạo, thúc đẩy phát triển, tạo cơ hội và mở rộng không gian phát triển.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật… nhanh chóng khắc phục những chồng chéo, bất cập trong hệ thống hiện hành, tạo nền tảng pháp lý ổn định, dễ tuân thủ. Tinh thần là: một vấn đề, một nội dung chỉ quy định tại một luật; doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, còn cơ quan Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Thứ năm, phân cấp mạnh, toàn diện cho địa phương theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Đề cao nguyên tắc thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực, đồng thời loại bỏ cơ chế “xin – cho” và tư duy bao cấp.
Không thể hạn chế quyền tự do kinh doanh của dân
Cần nhận thức rõ rằng các điều kiện kinh doanh, về bản chất, là rào cản hạn chế gia nhập thị trường. Càng có nhiều quy định về điều kiện kinh doanh thì càng lớn cản trở đối với cạnh tranh lành mạnh, đổi mới sáng tạo và phát triển, đặc biệt đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Khi số lượng quy định về điều kiện kinh doanh quá nhiều mà chất lượng lại thấp chính là biểu hiện rõ nét của tư duy “không quản được thì cấm”, tạo ra hệ thống pháp luật thiên về kiểm soát hơn là kiến tạo, tạo cơ hội và không gian phát triển.
Vì vậy, cần phải triệt để tháo bỏ những “điểm nghẽn” do các quy định về điều kiện kinh doanh các ngành nghề gây ra trong những Luật chuyên ngành để đảm bảo quyền tự do kinh doanh đã được hiến định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14, Hiến pháp 2013).
Rà soát tất cả các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh tương ứng trong Luật Đầu tư và pháp luật chuyên ngành. Chỉ giữ lại các ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc phạm vi điều chỉnh theo khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 và quản lý theo hình thức cấp giấy phép, giấy chứng nhận.
Thực hiện chương trình “cách mạng” về tinh giản quy định pháp luật, minh bạch hóa, số hóa và tự động hóa các quy trình, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp và tổ chức khác. Chương trình này cần được triển khai trên nền tảng ứng dụng rộng rãi công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn…, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có môi trường kinh doanh thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á, với thể chế trở thành năng lực cạnh tranh vượt trội trong khu vực.
Ngoài ra, các đơn vị vận hành mạng xã hội cũng không nghe lén, nghe trộm hoặc ghi âm cuộc gọi và đọc tin nhắn văn bản khi không có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu cá nhân, kể từ ngày 1.1.2026. Việt Nam cấm mạng xã hội dùng giấy tờ cá nhân xác thực tài khoản.
Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân (luật số 91/2025/QH15) được Quốc hội thông qua cuối tháng 6 và có hiệu lực từ ngày 1.1.2026 tập trung vào các vấn đề chính như quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu, trách nhiệm xử lý dữ liệu, cơ chế xử lý vi phạm và đảm bảo quyền riêng tư trên môi trường số. Trong đó, Điều 29 (Mục 2, Chương II) về Bảo vệ dữ liệu cá nhân đối với các nền tảng mạng xã hội, dịch vụ truyền thông trực tuyến quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ mạng xã hội, dịch vụ truyền thông trực tuyến tại Việt Nam.
Một trong những điểm đáng chú ý là quy định cấm các tổ chức, cá nhân nêu trên yêu cầu người dùng cung cấp hình ảnh, video chứa nội dung đầy đủ hoặc một phần giấy tờ tùy thân làm yếu tố xác thực tài khoản. Lâu nay, Facebook nổi lên là một trong những mạng xã hội “tích cực” trong việc đòi hỏi người dùng phải cung cấp các giấy tờ tùy thân do cơ quan nhà nước cấp nhằm xác thực tài khoản mới được phép sử dụng. Nếu không tuân thủ chính sách này, Facebook sẽ lập tức khóa tài khoản với lý do “vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng”, ngăn ngừa dấu hiệu lừa đảo.
Cũng tại Điều 29 quy định mạng xã hội “Không nghe lén, nghe trộm hoặc ghi âm cuộc gọi và đọc tin nhắn văn bản khi không có sự đồng ý của chủ thể dữ liệu cá nhân, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đây cũng là một trong vấn đề nổi cộm, được nhiều người quan tâm khi luôn có nghi ngại về việc mạng xã hội âm thầm nghe, đọc lén thông tin trao đổi của người dùng, sau đó bán cho các bên quảng cáo nhắm mục tiêu.Advertisements
Ngoài ra, luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân cũng yêu cầu tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ phải thông báo rõ ràng nội dung dữ liệu cá nhân thu thập khi chủ thể dữ liệu cá nhân cài đặt và sử dụng mạng xã hội, dịch vụ truyền thông trực tuyến; không thu thập trái phép dữ liệu cá nhân và ngoài phạm vi theo thỏa thuận với khách hàng.
Người dùng phải có lựa chọn từ chối cho phép bên cung cấp dịch vụ thu thập và chia sẻ tệp dữ liệu (cookie, thường phát sinh trong quá trình đăng nhập tài khoản, sử dụng dịch vụ trực tuyến). Bên cạnh đó, phải có lựa chọn “Không theo dõi” (hoạt động của người dùng trên nền tảng) hoặc chỉ được theo dõi khi có sự đồng ý của người sử dụng.
Các nền tảng buộc phải công khai chính sách bảo mật, giải thích rõ cách thức thu thập, sử dụng và chia sẻ dữ liệu cá nhân; cung cấp cho người dùng cơ chế truy cập, chỉnh sửa, xóa dữ liệu và thiết lập quyền riêng tư cho dữ liệu cá nhân, báo cáo các vi phạm về bảo mật và quyền riêng tư; bảo vệ dữ liệu cá nhân của công dân Việt Nam khi chuyển dữ liệu xuyên biên giới; xây dựng quy trình xử lý vi phạm về bảo vệ dữ liệu cá nhân nhanh chóng và hiệu quả.
Facebook bị đánh giá là nền tảng ‘mạng xã hội độc hại số 1’
Trước đó, tại sự kiện về góp ý cho dự luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân diễn ra hồi tháng 4.2025, lãnh đạo Cục An ninh mạng và Phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05 – Bộ Công an) đánh giá nhận thức của người dân và doanh nghiệp Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân còn hạn chế. Nhiều thông tin quan trọng như sinh trắc học, lý lịch, sức khỏe, tài chính vẫn được người dùng công khai trên mạng xã hội, tạo cơ hội cho các chương trình thu thập tự động, làm gia tăng rủi ro lạm dụng dữ liệu cá nhân.
Lãnh đạo A05 cũng chỉ rõ tình trạng mất an toàn dữ liệu cá nhân hiện diễn ra phổ biến, với các hoạt động thu thập, xử lý, sử dụng dữ liệu không minh bạch, không thông báo đầy đủ tới khách hàng. Các vụ việc lộ, lọt, đánh cắp dữ liệu diễn ra thường xuyên, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp.
Theo thống kê, trên thế giới hiện có hơn 140 quốc gia ban hành luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó có các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia.
Trước đây, các sàn thương mại điện tử cho phép các hộ kinh doanh tự do đăng bán sản phẩm mà không cần kiểm chứng chất lượng. Tuy nhiên, quy định mới sẽ Yêu cầu hàng hoá trên các sàn thương mại điện tử sẽ phải cung cấp cả chứng nhận tiêu chuẩn theo quy định.
Theo ông Hà Minh Hiệp, Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ), quy định mới này trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026), sẽ nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp và bảo vệ người tiêu dùng.
Luật sửa đổi, bổ sung lần này đã đổi mới toàn diện phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo 5 định hướng lớn.
Thứ nhất, chuyển đổi mô hình quản lý chất lượng theo rủi ro. Cụ thể, phân loại sản phẩm, hàng hóa được chuyển từ phân nhóm hành chính (nhóm 1, nhóm 2) sang phân loại sản phẩm, hàng hóa theo ba mức độ rủi ro (thấp, trung bình, cao). Ưu tiên giám sát và hậu kiểm thay cho tiền kiểm nhằm tăng hiệu qua, giảm can thiệp hành chính.
Theo đó, với nhóm có rủi ro thấp, doanh nghiệp được phép tự công bố tiêu chuẩn áp dụng. Đối với nhóm rủi ro trung bình, ngoài việc công bố tiêu chuẩn, doanh nghiệp phải tự đánh giá hoặc thông qua tổ chức chứng nhận đã được công nhận để đánh giá sự phù hợp. Riêng nhóm sản phẩm có rủi ro cao, doanh nghiệp bắt buộc phải được chứng nhận từ bên thứ ba.
Ông Hà Minh Hiệp, Chủ tịch Uỷ ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ).
Thứ hai, giảm nhẹ thủ tục hành chính đối với hàng nhập khẩu. Luật bổ sung quy định tạo thuận lợi cho hàng hóa nhập khẩu có mức độ rủi ro trung bình được công bố hợp quy dựa trên kết quả tự đánh giá hoặc chứng nhận hợp quy của tổ chức chứng nhận được công nhận, không phải công bố lại đối với lô hàng cùng loại, trừ khi có thay đổi về quy chuẩn kỹ thuật, đặc tính sản phẩm hoặc cảnh báo từ cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, lần đầu tiên Luật xác lập khung pháp lý về hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI), là hệ sinh thái bao gồm tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp (bao gồm cả công nhận), kiểm tra và xây dựng chính sách.
Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng hạ tầng chất lượng quốc gia trên nền tảng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan kiểm tra chất lượng, hải quan, truy xuất nguồn gốc, phản ánh người tiêu dùng và cảnh báo quốc tế để nâng cao năng lực giám sát và cảnh báo sớm.
“Lần đầu tiên, hoạt động truy xuất nguồn gốc được luật hóa, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quản lý chất lượng hàng hóa. Đặc biệt, đối với các sản phẩm có mức độ rủi ro cao, việc truy xuất nguồn gốc sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc”, ông Hiệp cho biết.
Thứ tư, xây dựng hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa quốc gia. Luật yêu cầu thiết lập hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa cấp quốc gia có chức năng: kết nối dữ liệu giữa các cơ quan quản lý; thu thập, phân tích phản ánh, cảnh báo từ người tiêu dùng; hỗ trợ hậu kiểm và xử lý rủi ro chất lượng.
Thứ năm, quản lý chất lượng hàng hóa trên nền tảng số. Luật đã bổ sung quy định quản lý chất lượng hàng hóa kinh doanh trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử, trong đó làm rõ trách nhiệm của người bán và trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử trong việc bảo đảm chất lượng hàng hóa.
Người bán phải công khai trung thực thông tin về chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Chủ quản nền tảng số trung gian phải có biện pháp kiểm tra, xử lý đối với hàng hóa vi phạm pháp luật về chất lượng; thiết lập và vận hành hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Theo ông Hiệp, quy định mới nhằm nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc công bố thông tin sản phẩm, đặc biệt là với các mặt hàng điện tử. Trước đây, các sàn thương mại điện tử cho phép các hộ kinh doanh tự do đăng bán sản phẩm mà không cần kiểm chứng. Nhưng sắp tới, các sàn sẽ phải cung cấp cả chứng nhận tiêu chuẩn của tất cả các sản phẩm.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã thể hiện sự chuyển hướng rõ nét trong tư duy lập pháp: từ quản lý hành chính cứng nhắc sang quản trị rủi ro, từ khuyến khích sang chế tài hợp lý, từ tiền kiểm sang hậu kiểm dựa trên dữ liệu và công nghệ số. Điều này không chỉ giúp tăng hiệu quả thực thi pháp luật mà còn góp phần giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia và bảo đảm công bằng, minh bạch trên thị trường.
Phó Cục trưởng Cục Thuế: Hộ kinh doanh sẽ được chia thành 4 nhóm doanh thu để quản lý sau khi bỏ thuế khoán vào năm 2026
Sau khi bỏ thuế khoán, hộ kinh doanh sẽ được phân loại theo 4 nhóm doanh thu để áp dụng các phương pháp quản lý và chính sách thuế phù hợp hơn, minh bạch hơn.
Tại họp báo thường kỳ quý II/2025 của Bộ Tài chính chiều 2/7, ông Mai Sơn, Phó Cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính), cho biết, việc bãi bỏ thuế khoán nhằm minh bạch hóa hoạt động kinh doanh môi trường cạnh tranh bình đẳng, giảm chênh lệch giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo môi trường công bằng với người làm công ăn lương. Thực tế, nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ như hàng quán, chợ truyền thống có doanh thu dưới hoặc chỉ nhỉnh hơn ngưỡng chịu thuế, vẫn đóng thuế khoán cố định.
Để thay thế thuế khoán, Dự thảo Luật Quản lý thuế dự kiến chia hộ, cá nhân kinh doanh thành 4 nhóm doanh thu, áp dụng phương pháp quản lý khác nhau. Cụ thể:
Nhóm 1: Doanh thu dưới 200 triệu đồng/năm, sẽ không phải chịu thuế và được khuyến khích sử dụng hóa đơn điện tử sau khi bỏ thuế khoán. Chỉ phải sử dụng sổ kế toán rất đơn giản để ghi chép thu chi theo mẫu (phần mềm) của Bộ Tài chính.
Nhóm 2: Doanh thu từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng/năm, có lộ trình áp dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế hoặc hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền từ năm 2027 – 2028. Chỉ phải sử dụng sổ kế toán rất đơn giản để ghi chép thu chi theo mẫu (phần mềm) của Bộ Tài chính.
Nhóm 3: Các hộ, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng có doanh thu 1 – 3 tỷ đồng/năm và lĩnh vực thương mại, dịch vụ có doanh thu 1 – 10 tỷ đồng/năm. Bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử. Thực hiện chế độ kế toán đơn giản.
Nhóm 4: Doanh thu trên 10 tỷ đồng. Bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử. Thực hiện các chế độ kế toán như các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được quy định.
Ngoài ra, cơ quan thuế dự kiến đề xuất tăng mức ngưỡng doanh thu không chịu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân lên ít nhất gấp đôi mức 200 triệu đồng/năm. Đồng thời, sửa đổi tỷ lệ % thuế thu nhập cá nhân cho hộ, cá nhân kinh doanh phân biệt theo quy mô doanh thu; kiến nghị sửa đổi các chính sách pháp luật liên quan nhằm hỗ trợ hộ, cá nhân kinh doanh phát triển.
Theo Phó Cục trưởng Mai Sơn, các nội dung nêu trên mới chỉ là dự kiến. Cục Thuế sẽ tiếp tục lấy ý kiến người dân, hiệp hội, chuyên gia để hoàn thiện khung quản lý, báo cáo Bộ Tài chính, trình cấp có thẩm quyền ban hành.