Tìm hiểu về Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha, sự khác biệt lớn giữa các thế hệ đang tạo ra vô số những thách thức cho người làm marketing.
Tìm hiểu về các thế hệ Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những sự khác biệt của các thế hệ (Generation) như Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Philip Kotler và đồng nghiệp, hiện có 5 thế hệ hay còn được gọi tắt là Gen mà người làm Marketing cần nghiên cứu và tìm hiểu đó là Gen X, Gen Y, Gen Z, Gen Alpha và Baby Boomers.
Baby Boomers – được sinh ra từ năm 1946 đến 1964.
Gen X – sinh năm từ 1965 đến 1980.
Gen Y – những người được sinh ra từ giữa những năm 1981 và 1996.
Gen Z – những người sinh giữa những năm 1997 và 2009.
Gen Alpha – bao gồm những người sinh từ năm 2010 đến 2025.
Dưới đây là những insights thú vị từ các thế hệ Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha.
Bùng nổ dân số sau Thế chiến II, Chiến tranh Lạnh, Sự sụp đổ của tường Berlin
Sự sụp đổ của Liên Xô, Sự phát triển của internet
Sự phát triển của công nghệ, Mạng xã hội, Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, Công nghệ thực tế ảo, Đại dịch COVID-19
Tiếp cận thông tin
Truyền thông truyền thống (TV, báo giấy)
Internet, truyền thông kỹ thuật số
Truyền thông kỹ thuật số, nền tảng trực tuyến
Truyền thông kỹ thuật số, trí tuệ nhân tạo
Giao tiếp
Điện thoại cố định, thư từ
Email, tin nhắn văn bản
Tin nhắn, video call, mạng xã hội
Ứng dụng nhắn tin, video call, trí tuệ nhân tạo
Quan niệm xã hội
Làm việc với sự ổn định, tận hưởng thành quả cá nhân
Đa dạng, công việc có ý nghĩa, sống cân bằng
Thể hiện cá tính bản thân rõ ràng, quan tâm đến cộng đồng, hành động tích cực
Môi trường đa văn hóa, quan tâm đến tương lai, kỹ năng kỹ thuật số
Giáo dục
Truyền thống, hướng nghiệp truyền thống
Đại học, học trực tuyến, tự học
Học trực tuyến, học theo yêu cầu, trải nghiệm thực tế
Học trực tuyến, trải nghiệm tương tác, trí tuệ nhân tạo
Tư duy
Đóng cửa, tập trung vào công việc, sự riêng tư
Đa nhiệm, linh hoạt, sáng tạo
Đa nhiệm, súc tích, khả năng tự học
Đa nhiệm, sử dụng công nghệ, tư duy sáng tạo, tò mò về thế giới
Lưu ý: Đây chỉ là một số điểm khác nhau chung và có thể có sự chồng chéo giữa các thế hệ. Sự khác biệt cụ thể cũng có thể thay đổi tùy thuộc vào các cá nhân trong từng thế hệ.
Các thế hệ Gen X, Y, Z hay Alpha đã chứng kiến những cuộc cách mạng công nghệ và xã hội đáng kinh ngạc trong thế kỷ 21. Từ Gen X, người đã trải qua sự thay đổi từ thế giới analog sang kỷ nguyên số, đến Gen Y (hay còn gọi là Millennials), những người đã trở thành những nhà lãnh đạo kỹ thuật số và đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ của internet và mạng xã hội.
Hay Gen Z, thế hệ trẻ đã trở thành những người tiêu dùng thông minh, sáng tạo và đam mê công nghệ. Họ đã chứng kiến sự bùng nổ của di động, mạng xã hội và truyền thông kỹ thuật số, tạo ra một thế giới kết nối liên tục và thông tin nhanh chóng. Mới đây nhất là gen Alpha, thế hệ đầu tiên sinh ra và lớn lên trong một thế giới hoàn toàn số hóa. Đây là những đứa trẻ thông minh, linh hoạt và sẵn sàng thích ứng với công nghệ. Với sự phát triển không ngừng của trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, Gen Alpha đặt ra một tiềm năng tuyệt vời cho tương lai với những cơ hội và thách thức mà trước đây không ai có thể tưởng tượng được.
Mỗi thế hệ Gen mang đến những đóng góp độc đáo và tạo ra những thay đổi to lớn trong xã hội và kinh tế. Từ việc thay đổi cách thức làm việc, giao tiếp, mua sắm và giải trí, các thế hệ Gen đã thúc đẩy sự tiến bộ và sáng tạo trong nhiều lĩnh vực.
1. Baby Boomers.
Thế hệ hay Gen đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu đó là Baby Boomers, vậy Baby Boomers là Gen gì và họ có gì đặc biệt.
Theo thứ tự Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha, Baby Boomers là những người lớn tuổi nhất, họ được sinh ra từ năm 1946 đến 1964.
Thuật ngữ baby boom liên quan đến tỷ lệ sinh đẻ cao ở Mỹ – và nhiều nơi khác trên thế giới – được theo sau bởi sự kết thúc của thế chiến 2 (World War II).
Với nền kinh tế và an ninh hậu chiến tranh, nhiều cặp đôi đã quyết định có em bé, những người đã trở thành thị trường mục tiêu trọng yếu cho những người làm marketing hiện tại.
Những người đầu tiên của thế hệ, họ là những thanh thiếu niên vào những năm 1960, được nuôi dưỡng trong những gia đình tương đối sung túc.
Tuy nhiên, tuổi thanh xuân của họ đã được trải qua dưới những căng thẳng của các vấn đề chính trị xã hội trong suốt cả thập kỷ. Kết quả là, họ thường liên quan với các phong trào phản văn hoá tại Mỹ và những quốc gia phương Tây khác.
Nhiều khái niệm không chính thống như hoạt động xã hội (social activism), chủ nghĩa môi trường (environmentalism), và lối sống hyppie (hippie lifestyle) cũng đã được nổi lên trong thời kì này. Phong trào phản văn hoá đã được khuếch đại hơn nữa bởi sự nổi lên của Tivi và quảng cáo cũng như làn sóng Hollywood mới.
Không giống như những người sinh ra trong thời kì đầu của thế hệ (early Boomers), những người được sinh ra cuối cùng trong thế hệ (late Boomers) – còn được biết đến là Gen Jones (Generation Jones) – phải sống trong một thời kì kiệt quệ của nền kinh tế.
Có bố mẹ đang trong độ tuổi làm việc, họ đã sống một cách độc lập và làm việc chăm chỉ hơn trong những sự nghiệp đầu đời của họ. Thế hệ phụ trong Baby Boomers này chính là tiền thân của Gen X – Họ có nhiều đặc điểm tính cách tương đồng với nhau.
Bởi vì quy mô tuyệt đối của nó và sự bùng nổ của nền kinh tế hậu chiến tranh của Mỹ trong quá trình họ được nuôi dạy, Baby Boomers đã trở thành một trong những nguồn lực kinh tế trọng yếu.
Trong nhiều thập kỷ, Baby Boomers là mục tiêu của các Marketer trước khi Gen Y đông hơn họ. Ngày nay, khi họ được sống trong một môi trường khoẻ mạnh hơn và sống lâu hơn, nhiều Baby Boomers đã trì hoãn quá trình nghỉ hưu và tiếp tục mở rộng sự nghiệp của họ đến năm ngoài 65 tuổi.
Hiện vẫn giữ các vai trò điều hành trong các tổ chức, Baby Boomers thường bị chỉ trích bởi những thế hệ trẻ hơn do sự thiếu thiện chí trong việc thích nghi những công nghệ mới và phá vỡ những sự khôn ngoan trong kinh doanh.
2. Gen X là thế hệ thứ 2 Sau Baby Boomers, trước Gen Y, Gen Z và Gen Alpha.
Gen X là một nhóm nhân khẩu học của những người sinh năm từ 1965 đến 1980, vậy Gen X là Gen gì?
Bị lu mờ và kẹp giữa bởi tính đại chúng của Baby Boomers và Gen Y, Gen X đã rơi khỏi tầm ngắm của những người làm marketing và do đó họ được mệnh danh là “đứa trẻ ở giữa bị quên lãng”.
Nhóm Gen X trải nghiệm những sóng gió kinh tế của những năm 1970 và sự bất ổn của năm 1980 trong suốt tuổi thơ và tuổi thanh xuân của họ nhưng lại gia nhập lực lượng lao động trong một vị thế kinh tế tốt hơn.
Họ liên quan mật thiết với khái niệm “bạn bè và gia đình”. Lớn lên trong những gia đình ly hôn hoặc hai nguồn thu nhập, những đứa trẻ Gen X sử dụng ít thời gian hơn với gia đình của họ và tương tác nhiều hơn với bạn bè.
Mối quan hệ đồng lứa mạnh mẽ trong Gen X đã tăng lên thành chân dung tình bằng hữu trong các chương trình truyền hình ăn khách của những năm 1990, chẳng hạn như Beverly Hills 90210 và Friends.
Là nhóm những đứa trẻ ở giữa (middle-child cohort), Gen X trải nghiệm những sự chuyển đổi công nghệ trọng yếu, điều đã khiến họ có khả năng thích nghi tốt hơn. Trong thời niên thiếu của họ, Gen X đã lớn lên cùng với việc xem các video âm nhạc trên kênh MTV và nghe nhạc từ thiết bị Walkman của họ.
Khi trưởng thành hơn, họ trải nghiệm cách sử dụng CDs và MP3s cũng như các dịch vụ phát audio để nghe nhạc. Họ chứng kiến sự tăng lên và thoái trào của dịch vụ cho thuê DVD và chuyển đổi đến việc phát trực tuyến video.
Điều quan trọng nhất, sự gia nhập của họ vào lực lượng lao động đã được đánh dấu bằng sự tăng trưởng của internet – khiến họ trở thành những người thích nghi sớm nhất của sự kết nối.
Cho dù bị bỏ qua bởi hầu hết những người làm marketing, Gen X đã trở thành một trong những thế hệ có sức ảnh hưởng nhất trong nguồn lực lao động ngày nay.
Với trung bình 20 năm kinh nghiệm làm việc, đạo đức công việc tốt, Gen X đã giữ hầu hết các vai trò lãnh đạo trong doanh nghiệp.
Vốn cảm thấy rất khó khăn trong việc dịch chuyển nấc thang doanh nghiệp khi Baby Boomers nới rộng quá trình nghỉ hưu của họ, nhiều người Gen X đã rời bỏ ông chủ của họ vào những năm 40 tuổi để bắt đầu sự nghiệp riêng, và họ đã trở thành những doanh nhân thành công.
3. Gen Y.
Gen Y là Gen gì?
Là thế hệ thứ 3 sau Baby Boomers và Gen X, Gen Y là những người được sinh ra từ giữa những năm 1981 và 1996 – đã trở thành nhóm được bàn tán nhiều nhất trong một vài thập kỷ.
Đến độ tuổi trong một thiên niên kỷ mới (new milllennium), họ còn được biết đến với tên gọi rất thông dụng, Millennials.
Được sinh ra trong một thời kỳ bùng nổ dân số khác, hầu hết Gen Y là con cái của Baby Boomers.
Đó là lý do tại sao họ còn được biết đến với một cái tên khác nữa là thế hệ Echo Boomer. Nói chung, họ được giáo dục tốt hơn và đa dạng hơn về văn hoá so với các thế hệ cha anh.
Họ còn là thế hệ đầu tiên kết nối với cách sử dụng của các phương tiện truyền thông mạng xã hội (social media).
Không giống như Gen X, những người đầu tiên sử dụng internet tại nơi làm việc với các mục đích chuyên nghiệp cho doanh nghiệp, Gen Y đã học về internet ở một độ tuổi trẻ hơn nhiều. Do đó, ban đầu, Gen Y chủ yếu tận dụng các phương tiện truyền thông mạng xã hội và các công nghệ liên quan đến internet khác cho mục tiêu cá nhân.
Trên phương tiện truyền thông mạng xã hội, họ rất cởi mở để thể hiện bản thân họ và thường xuyên so sánh họ với các bạn đồng trang lứa của mình. Họ cảm thấy cần thiết để nhận được sự ủng hộ và chấp thuận từ những người này.
Kết quả tất yếu, họ bị ảnh hưởng một cách nặng nề bởi những gì mà những người bạn đồng trang lứa của họ đang nói và mua.
Họ tin tưởng những người này hơn cả những thương hiệu lâu đời. Gen Y nghiên cứu và mua hàng trực tuyến rất nhiều, chủ yếu trên thiết bị di động của họ.
Nhưng họ không mua những sản phẩm như cách các thế hệ cũ thường làm, vì họ thích sự trải nghiệm hơn là sở hữu. Họ không tập trung vào việc tích luỹ tài sản và sự giàu có, thay vào đó, họ sưu tầm những câu chuyện và gia vị của cuộc sống.
Vì họ được giáo dục cao hơn, đa dạng hơn, và tiếp xúc với nhiều thứ hơn, Gen Y thường cởi mở và duy tâm hơn.
Gen Y đặt câu hỏi cho tất cả mọi thứ, điều đã khiến họ dễ bị xung đột hơn với những thế hệ cũ tại nơi làm việc, những người vốn kỳ vọng họ sẽ luôn tuân theo những chuẩn mực cũ.
Giống như cha mẹ Baby Boomers của họ, Gen Y hay Millennials thường được phân loại thành 2 thế hệ phụ (sub-generation).
Những Gen Y đầu đời – những người được sinh ra từ những năm 1980 – gia nhập lượng lượng lao động trong khoảng thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 với nhiều hậu quả nghiêm trọng, và từ đó họ phải tồn tại trong một thị trường việc làm đầy khó khăn.
Một vài người trong số họ phải kết thúc sự nghiệp xây dựng doanh nghiệp riêng. Bởi vì những kinh nghiệm làm việc rất cạnh tranh, họ có xu hướng tách biệt rõ ràng giữa cuộc sống cá nhân và công việc.
Những Gen Y trẻ hơn – được sinh ra trong những năm 1990 – lại ở một khía cạnh khác, họ được trải nghiệm một thị trường việc làm thuận lợi hơn.
Họ có xu hướng hoà trộn giữa cuộc sống cá nhân và công việc. Nói một cách khác, họ chỉ muốn những việc làm mà họ thích – công việc sẽ được hoàn thành.
Thế hệ phụ đầu đời là một “thế hệ cầu nối” bởi vì họ học để thích nghi được với cả thế giới số lẫn thế giới thực tại – giống như Gen X trước đó.
Tuy nhiên, thế hệ phụ trẻ hơn, lại giống với Gen Z nhiều hơn. Bởi vì họ đã thích nghi internet ở một độ tuổi rất trẻ, họ xem thế giới số như là một sự mở rộng liền mạch của thế giới thực tại.
4. Gen Z là thế hệ cận hiện đại nhất sau Baby Boomers, Gen X và Gen Y.
Tìm hiểu về các thế hệ Baby Boomers, Gen X, Gen Y, Gen Z và Gen Alpha
Là một trong những thế hệ năng động nhất với thế giới internet, Gen Z được kỳ vọng là thế hệ của tương lai với nhiều sự thay đổi.
Vậy Gen Z hay Thế hệ Z (generation z) là gì?
Những người làm marketing hiện đang tập trung mọi sự chú ý tới Gen Z. Những người con của Gen X, Gen Z – còn được biết đến với tên gọi Centen-nials – là một nhóm người sinh giữa những năm 1997 và 2009.
Nhiều Gen Z đã chứng kiến những sự khó khăn về tài chính của bố mẹ và những người anh chị em ruột của họ, và từ đó họ có ý thức về tài chính tốt hơn Gen Y.
Họ có xu hướng tiết kiệm tiền và xem sự ổn định về kinh tế là một yếu tố thiết yếu trong sự lựa chọn nghề nghiệp của họ.
Được sinh ra khi internet đã thực sự phát triển, họ được xem là những người bản địa số đầu tiên của nhân loại.
Không có trải nghiệm của cuộc sống nếu thiếu internet, họ xem các công nghệ kỹ thuật số là một phần không thể thay thế trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Họ luôn luôn kết nối internet thông qua các thiết bị số của họ để học tập, cập nhật tin tức, mua sắm, và cả kết nối với mọi người.
Họ tiêu thụ nội dung liên tục thông qua nhiều màn hình, ngay cả khi họ đang trong quá trình giao tiếp với những người khác. Kết quả tất yếu, họ hầu như không có biên giới giữa thế giới online và offline.
Được trao quyền bởi các phương tiện truyền thông mạng xã hội, Gen Z lưu lại cuộc sống hàng ngày của họ trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội dưới hình thức là ảnh và video. Nhưng không giống như Gen Y, những người theo chủ nghĩa duy tâm, Gen Z khá thực dụng.
Trái ngược với Gen Y, những người thích đăng tải những hình ảnh tươm tất và chuyên nghiệp của họ như là cách để thể hiện thương hiệu cá nhân, Gen Z thích đăng những hình ảnh bình dị và miêu tả chân thực chính bản thân họ.
Từ đó, Gen Z ghét những thương hiệu truyền tải những hình ảnh được tô điểm quá nhiều và không đúng với sự thật.
Bởi vì thiện chí để chia sẻ các thông tin cá nhân đối với Gen Z là cao hơn so với các thế hệ khác, họ muốn các thương hiệu cũng có thể truyền tải những nội dung, khuyến mãi, và trải nghiệm khách hàng được cá nhân hoá hơn.
Họ cũng kỳ vọng các thương hiệu có thể cung cấp cho họ những khả năng để kiểm soát và tuỳ chỉnh cách họ tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ.
Bởi vì dung lượng tuyệt đối của những nội dung đang nhắm mục tiêu tới họ, Gen Z thực sự coi trọng sự tiện lợi của việc cá nhân hoá và các tuỳ chỉnh.
Cũng như Gen Y, Gen Z quan tâm nhiều đến sự thay đổi của xã hội và sự bền vững của môi trường. Bởi vì chủ nghĩa thực dụng của họ, Gen Z tự tin hơn trong vai trò của họ để thúc đẩy sự thay đổi thông qua các quyết định hàng ngày của họ.
Họ ưa thích các thương hiệu tập trung mạnh mẽ vào việc giải quyết các vấn đề về môi trường và xã hội. Họ tin tưởng rằng sự lựa chọn thương hiệu của họ buộc các doanh nghiệp phải cải thiện các hoạt động nhằm hướng tới sự bền vững.
Gen Z cũng thích việc tạo ra sự khác biệt thông qua các hoạt động tình nguyện và kỳ vọng các ông chủ của họ cung cấp các nền tảng cần thiết để điều đó được xảy ra.
Gen Z tìm kiếm sự gắn bó lâu dài thông qua các mối quan hệ với thương hiệu. Họ kỳ vọng các thương hiệu cũng tạo ra được sự kích thích giống như các thiết bị trò chơi và điện thoại di động của họ.
Do đó, họ hy vọng các doanh nghiệp luôn luôn làm mới các đề xuất hay chương trình của chính họ. Họ muốn các doanh nghiệp cung cấp những trải nghiệm khách hàng đầy sức hút mới tại tất cả các điểm chạm trong hành trình khách hàng.
Các doanh nghiệp thất bại trong việc đáp ứng những sự kỳ vọng này của họ thường nhận được một kết quả tất yếu là sự trung thành thương hiệu thấp. Các doanh nghiệp nhắm mục tiêu đến Gen Z phải đối phó được với các chu kì sống của sản phẩm bị rút ngắn này.
Ngày nay, Gen Z đã đông hơn Gen Y và trở thành thế hệ đông nhất toàn cầu. Tới năm 2025, họ sẽ là lực lượng lao động chính và do vậy họ trở thành thị trường trọng yếu cho các sản phẩm và dịch vụ.
Sau khi tìm hiểu cụ thể về Gen Z, một câu hỏi được nhiều người đặt ra là “sau gen z là gen gì“, câu trả lời đó chính là Gen Alpha, bên dưới là những gì bạn cần hiểu về Gen Alpha.
5. Gen Alpha.
Gen Alpha bao gồm những người sinh từ năm 2010 đến 2025, điều này khiến họ trở thành những đứa con đầu đời của thế kỷ 21.
Được đặt ra bởi Mark McCrindle, tên chữ cái được đặt theo tiếng Hy Lạp biểu thị một thế hệ mới hoàn toàn, thế hệ được định hình bởi sự hội tụ của các yếu tố công nghệ.
Họ không chỉ là những người bản địa số (digital natives), mà còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi các hành vi số (digital behaviors) của bố mẹ của họ (Gen Y) và anh chị của họ (Gen Z). Như một điều phù hợp, sự ra mắt của chiếc iPad đầu tiên – thiết bị mà hầu hết những đứa trẻ đều bị dính vào – đánh dấu sự nổi lên của thế hệ này vào năm 2010.
Tính cách của Gen Alpha bị định hình và ảnh hưởng rất nhiều bởi phong cách nuôi dưỡng của bố mẹ Gen Y của họ. Kết hôn ở một độ tuổi lớn hơn, Gen Y rất quan tâm đến việc nuôi dưỡng và giáo dục của con cái.
Họ còn dạy con cái của họ về tiền bạc và tài chính từ rất sớm. Thêm vào đó, họ đã phát triển con cái của họ trong một môi trường đô thị rất đa dạng và thay đổi nhanh.
Từ đó, Gen Alpha không chỉ được giáo dục tốt và thuần thục về công nghệ mà còn toàn diện và mang đậm yếu tố xã hội.
Được nuôi nấng bởi Gen Y và ảnh hưởng bởi Gen Z, Gen Alpha đã tiêu thụ nội dung trên các thiết bị di động từ thời con thơ bé. Sử dụng thời gian trên màn hình nhiều hơn tương đối so với các thế hệ trước đó.
Gen Alpha xem video trực tuyến và chơi game trên các thiết bị di động hàng ngày. Một vài người trong số họ còn có kênh YouTube và tài khoản Instagram riêng – được xây dựng và quản lý bởi bố mẹ của họ.
Gen Alpha khá cởi mở với các nội dung có thương hiệu (branded content), chẳng hạn như các kênh đánh giá sản phẩm trên YouTube. Phong cách học tập của họ mang đậm yếu tố thực hành và thử nghiệm.
Họ rất thoải mái khi vui chơi với các đồ công nghệ, các thiết bị thông minh, và các đồ vật có thể đeo được.
Họ xem công nghệ không chỉ là một phần liên đới của cuộc sống của họ mà còn là sự mở rộng của chính bản thân họ.
Gen Alpha sẽ tiếp tục lớn lên, thích nghi và sử dụng các công nghệ bắt chước con người chẳng hạn như trí tuệ nhân tạo, điều khiển bằng giọng nói, và cả robots.
Ngày nay, Gen Alpha chưa có được động lực chi tiêu mạnh mẽ, nhưng họ có một sự ảnh hưởng lớn trên cách chi tiêu của những người khác.
Nghiên cứu của Google tiết lộ rằng 74% bố mẹ Gen Y coi trọng ý kiến của những đứa con Gen Alpha trong các quyết định mua hàng trong gia đình.
Thêm vào đó, một vài đứa con của Gen Y cũng đã trở thành những người có ảnh hưởng trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội (social media influencers), những người đóng vai trò là hình mẫu cho những đứa trẻ khác.
Theo một báo cáo của Wunderman Thompson Commerce cho thấy rằng 55% những đứa trẻ tại Mỹ và Vương Quốc Anh thích mua sắm những thứ mà những người có ảnh hưởng của họ sử dụng. Từ đây, chỉ còn là vấn đề thời gian để họ trở thành trọng tâm của những người làm marketing toàn cầu.
Đế chế độc quyền 1000 tỷ USD của Mark Zuckerberg: Mặc sức thâu tóm, sao chép, triệt tiêu đối thủ, 3 tỷ người dùng hầu như không có cơ hội rời đi
Nhờ vị thế độc quyền của mình, Đế chế độc quyền 1000 tỷ USD của Mark Zuckerberg Meta có thể tạo ra một môi trường nơi người dùng hầu như không có cơ hội rời đi để tìm đến một nền tảng tương đương.
Vào ngày 7/1/2021, Mark Zuckerberg thông báo rằng tài khoản Facebook của Tổng thống Trump khi đó sẽ bị khóa vô thời hạn liên quan tới việc những người ủng hộ xông vào tòa nhà Quốc hội Mỹ một ngày trước đó.
Bốn năm sau, cũng vào ngày 7/1, Zuckerberg công bố một sự đảo ngược trong chính sách kiểm duyệt nội dung của Meta: Việc kiểm tra thông tin sẽ được thay thế bằng các ghi chú cộng đồng (community notes), và các thuật toán dùng để xóa bỏ phát ngôn thù ghét sẽ bị giảm bớt. Việc kiểm duyệt nội dung giờ đây được ông xem là hành vi kiểm soát và đàn áp thông tin.
Một cách vô tình, Zuckerberg đã đưa ra lập luận mạnh mẽ nhất cho việc cần phải chia tách Meta. Nhiều phản ứng trước thông báo của ông xoay quanh việc tranh luận liệu chính sách kiểm duyệt nội dung mới hay cũ là khôn ngoan hơn. Tuy nhiên, “cuộc chiến kiểm duyệt nội dung” chỉ là vấn đề bề nổi.
Ngoại trừ những nội dung vi phạm pháp luật, không có một cách tiếp cận “đúng” hay “sai” duy nhất trong việc kiểm duyệt nội dung. Giống như nhà hàng, văn phòng hay lớp học, các nền tảng trực tuyến có thể phát triển tốt dù theo quy tắc nghiêm ngặt hay lỏng lẻo. Nhưng dù là quy tắc gì, thì cũng không nên để một cá nhân có quyền đơn phương đặt ra luật chơi cho hàng triệu, hàng tỷ người dùng.
Nói một cách đơn giản, chính sách kiểm duyệt nội dung của Meta đang bị mâu thuẫn ngay trong chính bản thân họ – cũng như các nền tảng độc quyền về phát ngôn khác. Có ba lý do vì sao các công ty độc quyền kiểm soát nội dung như Meta là mối đe dọa đối với nền dân chủ.
Thứ nhất, quy mô của nền tảng và mức độ tập trung thị trường làm gia tăng hệ quả từ từng quyết định kiểm duyệt nội dung cũng như cách thức thiết kế nền tảng. Việc gia tăng tầm quan trọng của các quyết định kiểm duyệt là điều đặc biệt đáng lo ngại, bởi như chính Zuckerberg đã thừa nhận, kiểm duyệt nội dung vốn dĩ dễ mắc sai lầm.
Khi một nền tảng phải đánh giá hàng tỷ bài đăng, chắc chắn sẽ có những nội dung bị xóa nhầm dù đáng ra phải được giữ lại, và cũng có những nội dung không bị xóa dù lẽ ra nên bị gỡ bỏ – ngay cả khi nền tảng hành động với ý định tốt nhất. Một số tài khoản sẽ bị khóa nhầm, trong khi một số khác lại bị bỏ sót.
Khi Facebook khóa tài khoản của Tổng thống Trump, có thể công ty đã hành động quá sớm hoặc quá muộn. Hoặc cũng có thể nền tảng này lẽ ra không nên khóa tài khoản đó ngay từ đầu.
Việc áp dụng các biện pháp kiểm duyệt nội dung nghiêm ngặt hơn (như chính sách của Meta vào năm 2021) hay nới lỏng hơn (như vào năm 2025) đều không làm giảm mức độ rủi ro trong các quyết định kiểm duyệt, và gần như không thể hy vọng giảm thiểu nguy cơ sai sót. Những gì chúng làm chỉ là ưu ái cho một loại sai lầm này hơn loại sai lầm khác.
Zuckerberg thừa nhận rằng đây là một “sự đánh đổi”. Cách duy nhất để giảm mức độ hệ trọng của các quyết định kiểm duyệt nội dung là tăng số lượng nền tảng cho phép nội dung được lan truyền. Nếu có 50 nền tảng như Meta, thì các quyết định riêng lẻ của mỗi công ty sẽ không còn quá quan trọng; và những sai sót không thể tránh khỏi của họ cũng sẽ không gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với diễn ngôn công chúng.
Cả năm 2021 và 2025, các tuyên bố mang tính bước ngoặt của Zuckerberg đều được đưa ra chỉ vài ngày trước lễ nhậm chức của một chính quyền mới — thời điểm ông có thể nhận thức rõ ràng nhất về những rủi ro chính trị và pháp lý từ hành động của mình.
Đến năm 2025, Zuckerberg công khai viện dẫn kết quả bầu cử gần đây để biện minh cho các thay đổi chính sách phù hợp với định hướng của chính quyền ông Trump sắp lên nắm quyền.
Khi gọi việc gỡ bỏ nội dung là “kiểm duyệt” và tuyên bố rằng “các cáo buộc về bệnh lý tâm thần hay bất thường… dựa trên giới tính hoặc xu hướng tính dục” giờ đây được cho phép, Meta đã ngả hẳn về phía chính quyền mới cả về ngôn từ lẫn chính sách cụ thể. Zuckerberg thậm chí còn tái cấu trúc đội ngũ của mình và bổ nhiệm Joel Kaplan — một người thân cận với chính quyền ông Trump — làm Giám đốc chính sách toàn cầu.
Thứ ba, các tuyên bố của Zuckerberg, cả vào năm 2021 và 2025, cho thấy mức độ quyền lực cá nhân vượt trội trong việc chi phối công chúng. Không có bất kỳ sự ủy nhiệm công khai nào cho các chính sách của mình, Zuckerberg đã tự mình ban hành các “luật chơi ngôn luận” mới cho 250 triệu người dùng Facebook và 160 triệu người dùng Instagram tại Mỹ nói riêng và hàng tỷ người dùng trên toàn cầu nói chung.
Không một chính trị gia nào — dù có được lá phiếu bầu cử hợp pháp — lại nắm trong tay quyền lực kiểm soát diễn ngôn ở mức độ như vậy. Nhờ vị thế độc quyền của mình, Meta có thể tạo ra một môi trường nơi người dùng hầu như không có cơ hội rời đi để tìm đến một nền tảng tương đương, cũng như không thể tự do cất lên tiếng nói của mình. Điều này biến Meta trở thành một “chính quyền tư nhân bất hợp pháp” – một hình thái cai quản không có sự giám sát dân chủ và không chịu trách nhiệm giải trình trước công chúng.
Như báo cáo được công bố vào đầu tuần này, Tiểu ban Tư pháp Hạ viện Mỹ về chống độc quyền đã xác định rằng Facebook đang nắm giữ quyền lực độc quyền trong lĩnh vực mạng xã hội và duy trì vị thế này bằng cách thâu tóm, sao chép hoặc triệt tiêu các đối thủ cạnh tranh.
Báo cáo cũng đề cập đến các mối lo ngại về chống độc quyền liên quan đến Amazon, Apple và Alphabet – công ty mẹ của Google – và khuyến nghị Quốc hội xem xét một loạt biện pháp khắc phục tiềm năng. Một trong số đó là “chia tách cấu trúc” (structural separation), có thể yêu cầu các công ty này chia tách một số bộ phận trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ, Facebook có thể buộc phải bán hoặc tách biệt về mặt vận hành các dịch vụ đã mua lại như Instagram (mạng chia sẻ ảnh) và WhatsApp (ứng dụng nhắn tin).
Báo cáo cũng đề xuất rằng bất kỳ thương vụ sáp nhập nào của các công ty công nghệ lớn nên mặc định bị xem là hành vi hạn chế cạnh tranh, trừ khi các công ty có thể chứng minh rằng việc sáp nhập là vì lợi ích cộng đồng và không thể đạt được bằng cách nào khác.
THÂU TÓM, SAO CHÉP HOẶC TRIỆT TIÊU
Riêng đối với Facebook, báo cáo kết luận rằng “quyền lực độc quyền của Facebook đã ăn sâu bám rễ và khó có thể bị bào mòn bởi áp lực cạnh tranh từ các công ty mới hoặc các đối thủ hiện tại”. Facebook duy trì vị thế độc quyền của mình nhờ hiệu ứng mạng mạnh mẽ, chi phí chuyển đổi cao đối với người dùng, và lợi thế vượt trội về dữ liệu.
Đặc biệt, báo cáo nhấn mạnh rằng Facebook củng cố vị thế độc quyền của mình bằng cách xác định các đối thủ tiềm tàng có thể đe dọa công ty, rồi thâu tóm, sao chép hoặc triệt tiêu họ. Một ví dụ được nêu trong báo cáo là cuộc trao đổi vào năm 2012 giữa Mark Zuckerberg và Giám đốc tài chính của ông tại thời điểm đó liên quan đến thương vụ mua lại Instagram với giá 1 tỷ USD.
“Một cách nhìn nhận vấn đề là điều chúng ta thực sự đang mua chính là thời gian”, Zuckerberg nói, theo nội dung trong báo cáo. “Ngay cả khi có đối thủ mới xuất hiện, việc mua lại Instagram lúc này… sẽ cho chúng ta ít nhất một năm hoặc hơn để tích hợp các động lực của họ, trước khi bất kỳ ai có thể tiệm cận lại quy mô đó”.
Một người phát ngôn của công ty nói với CNBC rằng “Facebook là một câu chuyện thành công kiểu Mỹ”.
“Chúng tôi cạnh tranh với rất nhiều dịch vụ mà hàng triệu, thậm chí hàng tỷ người đang sử dụng”, người phát ngôn này cho biết trong tuyên bố. “Việc mua lại là một phần của mọi ngành công nghiệp, và đó chỉ là một trong những cách chúng tôi đổi mới công nghệ để mang lại nhiều giá trị hơn cho người dùng.
Instagram và WhatsApp đạt được những thành công vượt bậc là nhờ Facebook đã đầu tư hàng tỷ USD vào hai nền tảng này. Thị trường cạnh tranh rất mạnh mẽ tại thời điểm cả hai thương vụ diễn ra và điều đó vẫn đúng cho đến hôm nay. Các cơ quan quản lý đã xem xét kỹ lưỡng từng thương vụ và hoàn toàn không tìm thấy lý do nào để ngăn chặn chúng diễn ra vào thời điểm đó”.
MỎ VÀNG DỮ LIỆU
Báo cáo cũng chỉ ra lợi thế vượt trội của Facebook trong việc thu thập dữ liệu từ lượng người dùng khổng lồ – lớn hơn nhiều so với bất kỳ đối thủ nào trong lĩnh vực mạng xã hội.
Theo báo cáo, lợi thế về dữ liệu này có hai mặt. Với hơn 3 tỷ người dùng hàng tháng, Facebook có quyền truy cập vào lượng dữ liệu vượt xa các đối thủ. Công ty sử dụng dữ liệu này để tùy biến trải nghiệm người dùng một cách chính xác hơn, từ đó thu hút thêm người dùng và khiến họ dành nhiều thời gian hơn trên các dịch vụ của Facebook.
“Lợi thế về dữ liệu của Facebook vì thế ngày càng được khuếch đại theo thời gian, củng cố vị thế thị trường của công ty và khiến các nền tảng mới càng khó có khả năng tạo ra trải nghiệm cạnh tranh”, báo cáo nêu rõ.
Báo cáo đề xuất rằng tăng tính tương tác giữa các nền tảng cạnh tranh có thể giúp giảm bớt lợi thế dữ liệu mà Facebook đang có. Ví dụ, có thể yêu cầu rằng ứng dụng nhắn tin của một công ty phải có khả năng gửi tin nhắn đến ứng dụng của công ty khác.
“Trước hết, tính tương tác có thể ‘làm suy yếu sức mạnh của hiệu ứng mạng’ bằng cách cho phép các đối thủ mới tận dụng lợi thế hiệu ứng mạng đang tồn tại ‘ở cấp độ thị trường, chứ không phải cấp độ công ty’”, báo cáo viết. “Điều này cũng sẽ làm giảm chi phí chuyển đổi cho người dùng bằng cách đảm bảo họ không bị mất liên lạc với mạng lưới xã hội của mình khi chuyển sang một nền tảng khác”.
Gen Z được cho là dành quá nhiều thời gian cho mạng xã hội và chọn sống nhàn rỗi. Việc xem nhẹ những công việc đầu đời khiến họ bỏ lỡ nhiều bài học cần thiết để trưởng thành, thế hệ dán mắt vào điện thoại trả giá.
Bài viết là quan điểm của Lucy Burton (Anh), biên tập viên chuyên mục việc làm và cây bút bình luận của tờ The Telegraph.
Những công việc đầu đời hiếm khi mang lại cảm giác hào hứng. Từ cuối tuổi teen đến đầu tuổi 20, tôi đã kinh qua đủ loại việc làm tạm bợ, như cắt lát thịt nguội trong siêu thị, phát tờ rơi cho các đêm nhạc tại câu lạc bộ, xịt nước hoa trong trung tâm thương mại đến ngồi văn phòng tẻ nhạt giữa khu công nghiệp hoang vắng.
Những công việc ấy đơn thuần là giúp tôi có thêm tiền tiết kiệm để du lịch sau đại học hay tham gia các cuộc vui cùng bạn bè. Thế nhưng, chúng cũng mang lại nhiều bài học đáng giá.
Một công việc nhàm chán ở giai đoạn đầu trưởng thành có thể dạy ta nhiều điều. Nếu Ricky Gervais – danh hài, “biểu tượng” của truyền hình Anh đầu thập niên 2000 – chưa từng nếm trải đời sống công sở tẻ ngắt, có lẽ series hài kịch The Office cũng chẳng thể ra đời.
Dù vậy, những trải nghiệm ấy đang dần biến mất.
Thế hệ lựa chọn sự nhàn hạ
Theo số liệu công bố đầu tháng 4 bởi tổ chức giáo dục Learning and Work Institute (Anh), cứ 5 người trẻ không học hành hay đi làm, thì có đến 3 người chưa từng làm bất kỳ công việc nào có lương.
Phần lớn trong nhóm NEET – Not in Education, Employment or Training (tạm dịch: “không học hành, không đi làm, không được đào tạo”) thậm chí còn không tìm việc. Trong bối cảnh tỷ lệ rối loạn tâm lý và lối sống “lười biếng” gia tăng ở người trẻ, chúng ta vẫn chưa nói đủ về những lợi ích từ việc từng làm một công việc tẻ nhạt khi còn trẻ.
Nhiều người trẻ ngày nay coi thường các công việc đơn giản, tạm bợ, cho rằng chúng không mang lại giá trị hay thành tựu. Ảnh minh họa: Shkrabaanthony/Pexels.
Một thế hệ chỉ biết “dán mắt” vào màn hình và lựa chọn sự nhàn hạ thay vì đi làm, có lẽ rồi sẽ nhìn lại với sự tiếc nuối. Dù họ chưa nhận ra, việc tránh né trưởng thành cũng đồng nghĩa với việc bỏ lỡ vô số tương tác xã hội, cơ hội nghề nghiệp, và cả những khoảnh khắc không dễ chịu nhưng cần thiết như việc bị phê bình hay học cách phản biện.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa người trẻ phải chịu đựng những ông sếp độc đoán, thiếu tôn trọng. Nhưng việc tiếp nhận góp ý và biết tranh luận đúng mực là điều không thể thiếu trong môi trường làm việc.
Nhiều lãnh đạo đang dần mất kiên nhẫn với thế hệ trẻ. CEO Channel 4, Alex Mahon (Anh), từng nhận xét rằng nhiều bạn trẻ bước vào thị trường lao động mà không hề có khả năng tiếp nhận những ý kiến trái chiều. Đồng quan điểm, cựu huấn luyện viên Manchester United, Erik ten Hag (Hà Lan), từng chia sẻ trong năm nay rằng các cầu thủ bóng đá hiện đại khó tiếp nhận chỉ trích.
“Ở thế hệ của tôi, mọi người ‘dày mặt’ hơn nhiều. Khi đó, bạn có thể nói chuyện thẳng thắn”, ông nói.
Dù các quản lý đã học cách góp ý nhẹ nhàng hơn, nhưng mọi thứ đều có giới hạn. Việc không có công việc được trả lương trong suốt một khoảng thời gian dài đầu đời, và cũng không đi học, khiến cuộc sống của nhân sự dễ rơi vào trạng thái không phương hướng.
Theo khảo sát từ tổ chức More in Common và dự án New Britain thuộc Liên hiệp Giáo dục Quốc gia Anh, hơn một nửa số phụ huynh cho rằng con mình sẽ hạnh phúc hơn nếu không có mạng xã hội. Khi thế giới ngày càng hướng nội và gắn với không gian ảo, việc dấn thân ra bên ngoài lại trở thành điều đáng sợ với nhiều người trẻ.
Và khi những công việc đầu đời đơn giản bị bỏ qua, không ít bạn trẻ sau thời gian “NEET” bước vào thị trường lao động với tâm lý không chịu nổi sự khác biệt hay va chạm.
Rào cản trưởng thành của Gen Z
Một hãng luật tại London (Anh) trả lương lên tới 180.000 GBP (khoảng 230.000 USD)/năm cho sinh viên mới tốt nghiệp đã phải đăng tuyển vị trí “luật sư hỗ trợ”, với lý do rằng nhân viên Gen Z cần được “nắm tay chỉ việc” trong suốt ngày làm việc.
Trên blog pháp lý RollOnFriday, nơi đầu tiên đưa tin về tin tuyển dụng này, nhiều luật sư kỳ cựu phàn nàn rằng các thực tập sinh Gen Z không chịu nhận sai, thậm chí than phiền với bộ phận nhân sự khi bị góp ý.
Tôi không hoàn toàn đồng tình với định kiến cho rằng Gen Z là “thế hệ bông tuyết”, yếu mềm và mỏng manh. Rõ ràng, những vấn đề sức khỏe tinh thần ảnh hưởng đến thế hệ này là có thật, đặc biệt trong bối cảnh hậu Covid-19 và sự lan rộng của mạng xã hội. Nhưng với những người trẻ khỏe mạnh, có khả năng lao động nhưng lại không chủ động tìm việc, rõ ràng giá trị của lao động đã bị xem nhẹ.
Một công việc, dù đơn điệu, vẫn có thể mang lại nhiều lợi ích: mở rộng mối quan hệ, xây dựng các thói quen tốt, cải thiện kỹ năng giao tiếp và biết rõ hơn về mục tiêu nghề nghiệp. Những điều đó không chỉ có giá trị tạm thời mà còn theo ta suốt đời.
Việc chưa từng có công việc được trả lương trước tuổi trưởng thành đang trở nên phổ biến, dẫn tới khoảng trống kinh nghiệm sống và kỹ năng xã hội. Ảnh minh họa: Anthonyshkraba Production/Pexels.
Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng có vô vàn nghiên cứu lý giải vì sao Gen Z ngày nay không còn mặn mà với công việc. Trong thời đại mà giấc mơ sở hữu nhà ở ngày càng xa vời, nhiều bạn trẻ không còn thấy việc “cày cuốc” là đáng giá. Họ tự hỏi: “Ra ngoài làm mấy ca buồn tẻ, bị sếp soi mói thì để làm gì?”.
Theo khảo sát của đơn vị nghiên cứu Gallup (Mỹ), chỉ 10% người lao động Anh nói rằng họ “thực sự hứng thú” với công việc, không phải là một bức tranh sáng sủa cho hình ảnh của thị trường lao động.
Sự đứt gãy này một phần đến từ việc thiếu định hướng nghề nghiệp. Nghiên cứu gần đây của Trường Đại học Liên ngành London (Anh) cho thấy 23% người 18-24 tuổi không tin rằng có chương trình đại học phù hợp với mục tiêu sự nghiệp của họ. Trong khi đó, 45% sinh viên tốt nghiệp độ tuổi 25-34 cảm thấy “sốc” vì không được chuẩn bị đủ cho những thử thách của đời sống thực tế khi đi làm.
Nếu những người trẻ trong nhóm NEET có cơ hội làm thêm một công việc nhỏ từ sớm, họ có thể hiểu rõ hơn mình muốn gì trong tương lai. Số khác thì chứng kiến người thân bị cuốn vào guồng quay cơm áo gạo tiền và không muốn bước vào lối mòn ấy.
Theo khảo sát của doanh nghiệp tài chính Santander UK, 76% người sinh sau năm 1996 không muốn làm thuê cho người khác. Nhưng kể cả với những ai muốn làm chủ, họ cũng cần học nghề, học cách nhận góp ý và chịu được va chạm, những điều không thể thiếu để rèn tay nghề.
Việc Facebook xóa video livestream (phát trực tiếp) sau 30 ngày có thể khiến người làm nội dung phải thay đổi kế hoạch phát triển, đồng thời chi thêm tiền cho quảng cáo và dịch vụ lưu trữ cá nhân.
Kế hoạch Facebook xóa video livestream sau 30 ngày được thực hiện từ giữa tháng 2 tại các thị trường quốc tế và dự kiến muộn hơn tại Việt Nam, có thể rơi vào cuối tháng 6, đầu tháng 7. Thay đổi chính sách lưu trữ video livestream được đánh giá là một trong những động thái để thúc đẩy nền tảng video ngắn Reels.
“Việc này cũng nhằm hạn chế phí phạm tài nguyên lưu trữ, vì đa số video livestream không phải nội dung xây dựng lâu dài mà chỉ mang tính thời điểm. Động thái này cũng góp phần thúc đẩy các nhà bán hàng hay nhà sáng tạo nội dung đầu tư hơn vào việc tạo ra các tuyến thông tin mới”, ông Lê Hải Vũ – CEO công ty Velasboost, đồng thời là chuyên gia thương mại điện tử chia sẻ với Thanh Niên.
Nhà bán hàng, sáng tạo nội dung sẽ phải đầu tư thêm chi phí lưu trữ nếu muốn tái sử dụng các video livestream trên Facebook
Ảnh: Anh Quân
Đánh giá về mức độ ảnh hưởng của chính sách mới, ông Vũ cho rằng “dù ít hay nhiều cũng sẽ có tác động. Cụ thể, Facebook xóa video livestream sẽ làm mất đi một lượng tương tác nhất định tới tuyến nội dung vốn có thể tái sử dụng, khiến người tạo cần làm nhiều hơn. “Các video từng phát trực tiếp có thể tận dụng để chạy quảng cáo lâu dài thì bây giờ chỉ có thể tái sử dụng trong thời gian ngắn. Nếu muốn giữ lại, người dùng sẽ tốn chi phí lưu trữ ngoài”, ông Lê Hải Vũ nhận định.
Theo khuyến nghị từ Meta – công ty mẹ của Facebook, người dùng muốn lưu trữ video đã phát để không bị xóa có thể tải về trước khi đến thời hạn 30 ngày. Như vậy, họ sẽ cần đầu tư chi phí cho thiết bị lưu trữ ngoài (thường là ổ cứng) hoặc mua gói dung lượng trên các dịch vụ đám mây như One Drive (Microsoft), Drive (Google)… nếu muốn tái sử dụng video.
Anh Nguyễn Khánh Vinh, một nhà bán hàng eCom cho biết thông thường vẫn sử dụng lại các video đã livestream trên Facebook để chạy quảng cáo, do vậy chính sách mới sẽ khiến chiến lược này bị thay đổi. “Facebook xóa video livestream thì bắt buộc tôi phải chạy quảng cáo sớm hơn, chứ không như trước kia là lần lượt để kiểm tra độ hiệu quả. Điều này cũng gây khó khăn nhiều cho việc khai thác của công ty mà tôi đang làm”, anh Khánh Vinh tâm sự.
Về phía những người sáng tạo nội dung theo hình thức đào tạo, chia sẻ kiến thức, việc Facebook xóa video cũng khiến họ vất vả hơn nếu muốn lưu giữ nội dung cũ.
Facebook không phải kênh duy nhất
Tuy có ảnh hưởng đến người dùng, nhiều chuyên gia nhận định những tác động đến từ việc Facebook xóa video livestream không gây quá nhiều sự xáo trộn, do đây không phải nền tảng duy nhất mang về tương tác. “Mỗi kênh có một lượng khách hàng nhất định, ở đâu cũng tạo ra giá trị, không cần thiết phải dịch chuyển việc đang làm sang nền tảng khác, tuy nhiên cần trang bị thêm công cụ lưu trữ”, ông Lê Hải Vũ tư vấn.
Vị chuyên gia cho biết thêm, nếu nói về hiệu quả của phát trực tuyến thì hiện tại TikTok vẫn là kênh có giá trị hơn, sau đó mới tới Facebook. Dù vậy, mạng xã hội này cũng đang đầu tư rất nhiều để đẩy mạnh tính năng phát video trực tuyến, yếu tố giúp chi phí tính trên lượt tiếp cận video của Facebook hiện rẻ và khả năng lan tỏa cao. Đây được xem là cơ hội lớn cho các nhà bán hàng khai thác.
“Theo tôi, Facebook xóa video livestream có cả lợi và hại, lợi ích là để các nhà bán hàng, người sáng tạo sẽ làm việc nhiều hơn, tạo ra giá trị cao hơn, thúc đẩy xã hội luôn luôn tiến lên. Tuy nhiên với những người không có lợi thế về sáng tạo thì sẽ bị bóp nghẹt lượng truy cập, tiếp cận, bắt buộc phải đầu tư chi phí quảng cáo nhiều hơn, cũng như phải đầu tư thêm chi phí cho việc bảo quản, lưu trữ các nội dung tạo ra để tái sử dụng”, ông Vũ cho hay.
Việc Facebook xóa video livestream có thể không gây xáo trộn quá lớn tới hoạt động của nhà sáng tạo nội dung
Ảnh: Anh Quân
Còn theo ông Nhân Nguyễn, nhà sáng lập Nhân Nguyễn Sharing, chính sách mới không gây ảnh hưởng quá nhiều bởi người dùng Facebook không có hành vi xem lại livestream, khác với nền tảng YouTube. “Sau khi phát trực tuyến, nếu muốn dùng lại nội dung thì nhà bán hàng, người dùng có thể tải video về và biên tập lại. Đây là động thái tốt để giảm tải cho hệ thống Facebook”, ông Nhân nói.
Theo chuyên gia này, YouTube hiện nay mới là nền tảng được sử dụng nhiều nhất cho các video dài và thói quen người dùng xem lại livestream cũng tập trung ở đây. Nhiều video trên dịch vụ chia sẻ này đạt nhiều triệu view xem mới dù đã kết thúc phiên trực tuyến. Trong khi đó, nhiều nền tảng khác như Twitch hay TikTok vẫn có chính sách xóa video một thời gian sau live mà không tạo ra tác động gì. Ông Nhân kết luận: “Điều này chứng tỏ việc xóa video không ảnh hưởng nhiều đến người dùng”.
Bên cạnh đó, thời hạn 30 ngày cũng được đánh giá là “phù hợp” để nhà sáng tạo video đủ thời gian khai thác, xử lý “tài sản trực tuyến” của mình. Đồng thời, chính sách này cũng hạn chế tình trạng phát tán nội dung rác lặp đi lặp lại, không tạo ra giá trị mới khiến người dùng nhàm chán, dễ từ bỏ nền tảng.