Connect with us

Công Nghệ Phần Cứng

Từ dự án điên rồ đến bước ngoặt Internet: Google bắn laser truyền dữ liệu, cáp quang và Starlink có còn cần thiết?

Published

on

Google đang thử nghiệm một công nghệ mới từ dự án điên rồ đến bước ngoặt Internet: sử dụng tia laser để truyền dữ liệu qua không khí thay vì cáp quang, sóng vô tuyến hay vệ tinh.

Từ dự án điên rồ đến bước ngoặt Internet, dự án mang tên Taara, được phát triển bởi X – phòng thí nghiệm “điên rồ” của Google, đã có một bước tiến lớn khi thu nhỏ thiết bị thu phát từ kích thước đèn giao thông xuống chỉ còn một con chip quang học 13mm.

Internet truyền qua tia laser: Liệu có thay thế được cáp quang?

Taara là nỗ lực của Google nhằm tìm ra một giải pháp thay thế cho cáp quang, vốn được coi là tiêu chuẩn vàng của Internet tốc độ cao nhưng lại đắt đỏ và khó triển khai ở nhiều khu vực. Mahesh Krishnaswamy, tổng giám đốc dự án Taara, giải thích:

“Cáp quang rất nhanh, nhưng không phải lúc nào cũng khả thi do chi phí cao, môi trường địa lý phức tạp hoặc khó triển khai thực tế. Đó là lúc Taara xuất hiện.”

Trước đây, Taara sử dụng các trạm phát tín hiệu có kích thước lên tới 2.5 feet (~76cm), lắp trên tháp viễn thông và có thể truyền dữ liệu lên tới 20 Gbps trong khoảng cách tối đa 20km. Tuy nhiên, hệ thống cũ yêu cầu gương và cảm biến tự cân chỉnh, khiến thiết bị cồng kềnh và khó triển khai.

Từ dự án 'điên rồ' đến bước ngoặt Internet: Google bắn laser truyền dữ liệu, cáp quang và Starlink có còn cần thiết?- Ảnh 2.

Giờ đây, Google đã phát triển con chip Taara – một thiết bị chỉ nhỏ bằng móng tay nhưng vẫn có thể truyền tải dữ liệu 10 Gbps trong phạm vi 1km, nhờ một hệ thống cân chỉnh hoàn toàn bằng phần mềm.

Google không chỉ “vay mượn” chữ X từ Elon Musk, mà giờ đây còn có tham vọng cạnh tranh với Starlink – dịch vụ Internet vệ tinh của SpaceX.

Dù Starlink có lợi thế ở vùng sâu vùng xa, nhưng Taara lại tỏ ra hữu ích hơn ở khu vực thành phố đông đúc, nơi tín hiệu vệ tinh bị giới hạn tốc độ và dễ bị nhiễu. Không chỉ vậy, hệ thống này còn có chi phí thấp hơn, giúp đưa Internet đến những nơi chưa thể triển khai 5G hoặc gặp sự cố đứt cáp quang, chẳng hạn như các đảo ở Caribbean, các khu đô thị đông đúc ở Ấn Độ, hay những khu vực có hạ tầng Internet kém phát triển.

Tuy nhiên, Taara cũng không phải không có nhược điểm. Bất kỳ vật cản nào – từ sương mù, chim bay ngang qua hay mưa lớn – cũng có thể làm gián đoạn tín hiệu, điều mà cáp quang hay Starlink không gặp phải.

Dự án Taara đang có kế hoạch mở rộng tầm hoạt động của chip quang học bằng cách tích hợp hàng ngàn bộ phát laser để tăng công suất và phạm vi truyền tải.

Tuy nhiên, Google có một “truyền thống” không mấy vui vẻ: khai tử các dự án đầy tiềm năng quá sớm. Trong khi một số dự án như Waymo (xe tự lái) vẫn tiếp tục phát triển, những dự án đình đám một thời như Google Stadia đã bị xóa sổ chỉ sau vài năm.

Vậy liệu Taara có thể sống sót để trở thành một bước ngoặt mới trong ngành viễn thông, hay sẽ sớm bị Google “khai tử” như bao ý tưởng táo bạo khác? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước.

Theo Thanh Niên Việt

Continue Reading
Click to comment

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Công Nghệ Phần Cứng

Amazon 1 triệu robot làm việc ngày đêm khắp các cơ sở số lượng sắp ngang bằng con người

Published

on

Amazon 1 triệu robot làm việc ngày đêm khắp các cơ sở số lượng sắp ngang bằng con người. Gã khổng lồ thương mại điện tử, vốn đã dành nhiều năm tự động hóa các tác vụ, đang triển khai hơn 1 triệu robot làm việc tại khắp các kho vận.

Quá trình tự động hóa các cơ sở của Amazon đang tiến tới một cột mốc mới: Số lượng robot sắp ngang bằng số lượng con người.

Gã khổng lồ thương mại điện tử, vốn đã dành nhiều năm tự động hóa các tác vụ, đang triển khai hơn 1 triệu robot làm việc tại khắp các cơ sở. Kho vận nhộn nhịp đầy những cánh tay kim loại, thoăn thoắt lấy hàng từ các kệ và vận chuyển. Hệ thống tự động cũng giúp phân loại hàng hóa, trong khi các robot khác hỗ trợ đóng gói.

Một trong những robot mới của Amazon, có tên là Vulcan, có thể lấy các mặt hàng từ nhiều kệ. Amazon kết nối robot của mình với quy trình hoàn tất đơn hàng, do đó các máy có thể hoạt động song song với con người.

Rueben Scriven, giám đốc nghiên cứu tại Interact Analysis, một công ty tư vấn về robot, cho biết: “Họ đã tiến gần hơn một bước tới việc tích hợp hoàn toàn của robot”.

Hiện nay, khoảng 75% hoạt động giao hàng toàn cầu của Amazon được hỗ trợ bởi robot. Tự động hóa ngày càng tăng giúp hãng này cải thiện năng suất, đồng thời giảm bớt áp lực luân chuyển nhân sự giữa các trung tâm.

Đối với một số công nhân Amazon, quá trình tự động hóa ngày càng tăng đồng nghĩa với việc họ không phải làm các công việc như nâng, kéo và phân loại đơn giản. Neisha Cruz, người đã dành 5 năm làm việc tại một nhà kho của Amazon ở Windsor, Conn., trước khi được đào tạo để giám sát hệ thống robot, cho biết: “Tôi từng nghĩ rằng mình sẽ phải nâng vật nặng, tôi nghĩ rằng mình sẽ phải đi bộ như điên”.

Hiện tại, Neisha Cruz chỉ cần ngồi trước màn hình máy tính tại một văn phòng ở Tempe, Arizona, đảm bảo robot di động bên trong các cơ sở của Amazon trên khắp nước Mỹ hoạt động bình thường. Thu nhập đã tăng lên 2,5 lần so với trước đây.

Theo Giám đốc điều hành Andy Jassy, Amazon cũng đang triển khai trí tuệ nhân tạo trong các nhà kho của mình để cải thiện công cuộc sắp xếp hàng tồn kho, dự báo nhu cầu và hiệu quả của robot. Quy mô tổng lực lượng lao động sẽ được cắt giảm trong vài năm tới.

Là công ty tư nhân lớn thứ hai tại Mỹ, Amazon là ví dụ điển hình cho công cuộc tự động hóa trên khắp đất nước. Việc triển khai rộng rãi robot cho thấy những tiến bộ công nghệ đang tăng tốc, thay đổi cách vận hành nhà máy và ảnh hưởng lên khắp thị trường lao động.

Amazon bắt đầu đưa robot tiên tiến vào các kho hàng của mình sau khi chi 775 triệu USD vào năm 2012 để mua Kiva Systems – công ty sản xuất robot chuyên vận chuyển sản phẩm trên kệ. Vào thời kỳ đầu, robot di chuyển một lượng lớn các mặt hàng không được đóng gói, sau đó bắt đầu đảm nhiệm những nhiệm vụ khó khăn như đóng gói, phân loại sản phẩm và nâng các vật nặng.

Những tiến bộ về tự động hóa của Amazon được thể hiện rõ tại cơ sở rộng 3 triệu foot vuông ở Shreveport, La. Tại đó, hơn 60 cánh tay robot phân loại, xếp chồng và hợp nhất hàng triệu mặt hàng. Robot cũng kéo khóa xe đẩy các gói hàng để chất lên xe tải, giúp đóng gói túi giấy cho đơn hàng của khách và vận chuyển chúng vào đúng vị trí.

Sản phẩm được vận chuyển nhanh hơn 25% qua cơ sở. Amazon cho biết công ty đã đào tạo hơn 700.000 công nhân trên toàn thế giới cho những công việc được trả lương cao hơn, bao gồm làm việc với robot.

Amazon 'bá chủ' giấc mơ tự động hóa: 1 triệu robot làm việc ngày đêm khắp các cơ sở, số lượng sắp ngang bằng con người- Ảnh 1.

Yesh Dattatreya, nhà khoa học ứng dụng cấp cao tại Amazon Robotics cho biết: “Bạn có những công việc hoàn toàn mới đang được tạo ra, chẳng hạn như kỹ thuật viên robot. Công nhân kho đang được đào tạo về cơ điện tử”.

Dattatreya hiện đang lãnh đạo một nhóm Amazon mới thành lập từ phòng thí nghiệm đổi mới tại Bay Area để đưa các hệ thống trí tuệ nhân tạo tiên tiến hơn vào ngành robot của mình. Ông cho biết mục tiêu là biến những robot nhà kho trong tương lai thành trợ lý có thể phản hồi lệnh bằng lời nói, chẳng hạn như dỡ hàng từ xe kéo.

Theo chuyên gia công nghệ trưởng của Amazon Robotics, Tye Brady, công ty sẽ tiếp tục cần nhiều công nhân và những con robot mới nhằm mục đích giúp công việc của họ dễ dàng hơn thay vì thay thế hoàn toàn.

“Những công việc tầm thường, nhàm chán, lặp đi lặp lại sẽ được thay thế bằng tự động hóa. Điều đó có thể khiến mọi người hoảng sợ, nhưng sẽ giúp tất cả tập trung hơn vào những gì quan trọng nhất”, Tye Brady, chuyên gia công nghệ tại Amazon Robotics cho biết.

Tại bến tàu xuất hàng ở Nashville, vẫn có rất nhiều nhân viên đang làm việc. Việc triển khai robot tạo ra những công việc mới liên quan đến hoạt động giám sát và bảo trì máy móc. Một phát ngôn viên của Amazon cho biết các cơ sở như vậy thường có 200 nhân viên bảo trì robot.

Theo Rueben Scriven, nhà phân tích cao cấp tại công ty nghiên cứu Interact Analysis, việc sử dụng cánh tay robot chính là một bước đột phá quan trọng trong tự động hóa kho hàng. Ông cũng cho biết quá trình chọn lựa đơn chiếm một nửa chi phí lao động.

“Nếu bạn có thể làm điều đó, đây thực sự là giới hạn cuối cùng của tự động hóa”, ông Scriven nói.

Trước đó, Amazon cũng ứng dụng Sparrow, robot được trang bị ống hút và phần mềm trí tuệ nhân tạo chứ không đơn thuần chỉ là đôi mắt hay bàn tay con người. Đây là nỗ lực của Amazon nhằm tự động hóa nhiều hơn các hoạt động kho bãi thông qua việc chuyển một số nhiệm vụ lặp đi lặp lại và thách thức về mặt thể chất sang cho người máy.

Trước đây, công nhân kho sẽ nhặt đồ, phân loại và đặt lên đặt xuống các kiện hàng hàng triệu lần mỗi ngày. Amazon đang cố gắng để Sparrow làm những công việc đó: nhặt nhiều loại đồ vật một cách dễ dàng với khả năng xác định rõ đặc điểm vật thể như màu sắc, hình dạng và kích thước.

“Sparrow là một bước nhảy vọt lớn trong thách thức công nghệ và phát triển công nghệ”, Joseph Quinlivan, phó Chủ tịch Công nghệ và Robot toàn cầu của Amazon, cho biết.

“Sparrow sẽ đảm nhận các nhiệm vụ lặp đi lặp lại, cho phép nhân viên Amazon tập trung thời gian và năng lượng vào những việc khác, đồng thời nâng cao sự an toàn. Sparrow sẽ giúp chúng tôi thúc đẩy năng suất hiệu quả bằng cách tự động hóa một phần trong quy trình đóng gói”, báo cáo Amazon cho biết.

Theo WSJ, The NY Times

Continue Reading

Công Nghệ Phần Cứng

Nvidia, Microsoft, Google phải xếp hàng chờ đợi một hãng vô danh Nhật Bản ẩn mình suốt 100 năm

Published

on

Quyền lực của hãng vô danh Nhật Bản này lớn đến mức khiến các giám đốc Nvidia, Microsoft hay Google cũng phải xếp hàng để chờ cái gật đầu đồng ý từ một hãng vô danh Nhật Bản ẩn mình suốt 100 năm.

Trong bối cảnh cuộc đua AI toàn cầu đang nóng hơn bao giờ hết, những gã khổng lồ công nghệ như Nvidia, AMD, Microsoft, Google và Amazon đang đổ xô đến Nhật Bản, không phải để tìm kiếm những con chip tiên tiến nhất, mà là để đảm bảo nguồn cung một thành phần ít được biết đến nhưng vô cùng quan trọng: vải thủy tinh cao cấp (highest-end glass cloth) để cung ứng cho các máy chủ trí thông minh nhân tạo (AI).

Trung tâm của cuộc hành hương này chính là một cái tên mà có lẽ ít người biết đến bên ngoài giới công nghiệp: Nitto Boseki (Nittobo), hãng gần như duy nhất trên thế giới đáp ứng được tiêu chuẩn sản phẩm này với dòng “T-glass”.

Vậy là Nittobo, công ty vô danh Nhật Bản với lịch sử hơn một thế kỷ ẩn mình, đang âm thầm nắm giữ một vị trí then chốt, thậm chí là độc quyền, trong chuỗi cung ứng AI.

Vai trò của họ quan trọng đến mức, sự thiếu hụt T-glass đang trở thành một “nút thắt cổ chai” nghiêm trọng, buộc các CEO và quản lý cấp cao từ những tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới phải trực tiếp đến Tokyo, tìm mọi cách để có được nguồn cung vật liệu này.

Không riêng gì các ông lớn Big Tech, ngay cả những hãng công nghệ trong ngành AI như Unimicron, AT&S và Kinsus Interconnect Technology cũng phải xếp hàng chờ đợi cái gật đầu của Nittobo.

“Bạn không thể chỉ đến Nittobo với nhiều tiền mặt trong tay và đòi mua thêm”, một giám đốc điều hành của Kinsus, nhà cung cấp cho Nvidia và AMD, cho biết quota sản lượng của Nittobo cho khách hàng thường cố định cho đến khi họ xây thêm nhà máy mới và tăng sản lượng.

Các giám đốc điều hành trong ngành nói với tờ Nikkei Asian Review rằng Nittobo đã không lường trước được nhu cầu từ Nvidia sẽ tăng mạnh như thế nào trong những năm gần đây.

“Họ đang sản xuất sợi thủy tinh cho nhiều ngành công nghiệp, từ y tế và xây dựng đến ô tô, máy tính và các ứng dụng điện thoại thông minh”, một giám đốc điều hành của một nhà sản xuất bảng mạch in cho biết. “Máy chủ chỉ là một trong những ứng dụng đó”.

Mạch máu vô hình của AI

Vậy T-glass là gì mà lại có sức ảnh hưởng lớn đến vậy? Về mặt kỹ thuật, nó là loại kính có hệ số giãn nở nhiệt thấp (low-coefficient-of-thermal-expansion – CTE), được Nittobo và ngành công nghiệp gọi tắt là “T-glass”.

Loại vật liệu này cực kỳ quan trọng trong việc sản xuất chất nền chip (chip substrate) và bảng mạch in (printed circuit board – PCB) cao cấp, những thành phần không thể thiếu để tạo ra các máy chủ AI mạnh mẽ.

Giá trị của T-glass nằm ở những đặc tính vượt trội của nó: độ ổn định kích thước cao, độ cứng vượt trội và khả năng truyền dữ liệu tốc độ cao.

Trong thế giới của chip AI, nơi mà từng nanomet đều quan trọng, độ cứng của T-glass giúp ngăn chặn sự cong vênh của chất nền trong quá trình đóng gói chip tiên tiến – một yếu tố then chốt quyết định năng suất và hiệu quả sản xuất của chip AI.

Hãng vô danh Nhật Bản ẩn mình suốt 100 năm, giờ đây khiến Nvidia, Microsoft, Google phải xếp hàng chờ đợi, có tiền tỷ cũng phải cúi đầu- Ảnh 2.

Doanh số và lợi nhuận của Nittobo (Tỷ Yên) tăng mạnh nhờ AI

Điều đáng nói là Nittobo hiện là nhà cung cấp duy nhất trên thế giới về loại vải thủy tinh T-glass cao cấp nhất này. Vị trí độc quyền này đã biến một công ty vốn “vô danh” với công chúng trở thành một “người gác cổng” thầm lặng nhưng đầy quyền lực trong cuộc cách mạng AI.

Ban đầu, Nittobo cung cấp T-glass cho các nhà sản xuất vật liệu như Resonac và Mitsubishi Gas Chemical, cả hai đều đến từ Nhật Bản, sử dụng nó để sản xuất tấm phủ đồng (CCL). Sau đó, CCL được các nhà sản xuất chất nền chip và bảng mạch in như Ibiden và Unimicron sử dụng để sản xuất chất nền chip cao cấp, sau đó được sử dụng để gắn và đóng gói chip AI từ Nvidia và các công ty khác.

Vật liệu sợi thủy tinh cao cấp cũng rất cần thiết cho chip bộ nhớ và bộ xử lý cao cấp.

“Phần lớn công suất vải thủy tinh cao cấp của Nittobo đã được Nvidia, Microsoft, Google và Amazon đặt trước cho năm nay. Tất cả những nhà sản xuất trung tâm dữ liệu AI này đều nhận ra sợi thủy tinh quan trọng đến mức nào, vì vậy họ đã bỏ qua nhiều tầng trong chuỗi cung ứng để đảm bảo nguồn cung vật liệu”, một giám đốc điều hành từ một nhà sản xuất PCB tiết lộ.

Sự phụ thuộc này giải thích tại sao các nhà cung cấp chất nền chip và PCB lớn như Unimicron, AT&S, Kinsus Interconnect Technology cũng phải tìm đến Nittobo, trong nỗ lực tuyệt vọng để có thêm T-glass.

Tình hình khan hiếm vật liệu đã bắt đầu từ nửa cuối năm ngoái và dự kiến sẽ tiếp diễn đến năm sau, gây áp lực lớn lên toàn bộ chuỗi cung ứng chip AI.

Do là nhà cung cấp độc quyền T-glass cao cấp, Nittobo trở thành một “nút thắt cổ chai” trong chuỗi cung ứng AI toàn cầu. Nhu cầu khổng lồ từ các ông lớn công nghệ như Nvidia, AMD, Microsoft, Google, Amazon đã khiến công suất của Nittobo bị đặt kín, gây ra tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng cho các nhà sản xuất chất nền chip và PCB khác.

Hãng vô danh Nhật Bản ẩn mình suốt 100 năm, giờ đây khiến Nvidia, Microsoft, Google phải xếp hàng chờ đợi, có tiền tỷ cũng phải cúi đầu- Ảnh 3.

Trước nhu cầu tăng vọt, Nittobo đã cam kết đầu tư 80 tỷ yên (khoảng 550 triệu USD) để mở rộng sản xuất vật liệu bán dẫn, bao gồm T-glass, tại Nhật Bản và Đài Loan. Mục tiêu là tăng gấp đôi công suất tại Đài Loan vào tháng 3/2028.

Tuy nhiên, Giám đốc điều hành Hiroyuki Tada vẫn rất thận trọng: “Chúng tôi đang làm mọi thứ có thể để tránh gây bất tiện cho khách hàng. Nhưng đây không phải là tình huống mà chúng tôi có thể đưa ra những lời hứa lớn về việc tăng công suất. Ngay bây giờ, chúng tôi đang hoạt động hết công suất, vận chuyển mọi thứ có thể.”

Sự thận trọng này xuất phát từ kinh nghiệm đau thương của Nittobo về sự biến động của thị trường điện tử.

Công ty đã từng chứng kiến nhu cầu đột ngột bốc hơi trong quá khứ, khiến họ ngần ngại đầu tư quá nhanh vào việc mở rộng công suất lớn.

Đây là một tư duy phổ biến ở nhiều nhà sản xuất vật liệu Nhật Bản, những người thường ưu tiên tăng trưởng ổn định và bền vững hơn là theo đuổi lợi nhuận ngắn hạn trong một thị trường đầy biến động.

Cạnh tranh

Vị trí độc quyền của Nittobo, dù mang lại lợi nhuận cao (biên lợi nhuận của họ đã tăng vọt lên 15,1% nhờ AI), cũng đang khuyến khích sự cạnh tranh.

Các đối thủ như Taiwan Glass và một số nhà cung cấp Trung Quốc đang tích cực tìm cách thâm nhập vào thị trường T-glass cao cấp. Taiwan Glass tuyên bố sẽ sẵn sàng cung cấp sản phẩm vào cuối năm 2025, sớm hơn đáng kể so với thời gian Nittobo cần để xây dựng nhà máy mới.

Tuy nhiên, việc thay thế Nittobo không phải là chuyện ngày một ngày hai. Chủ tịch T.J. Tseng của Unimicron, một trong hai nhà cung cấp chất nền cao cấp cho chip AI của Nvidia, nhận định rằng T-glass cao cấp không phải là thứ mà mọi công ty có thể sản xuất chỉ sau một đêm.

“Mặc dù có những người chơi mới từ Trung Quốc nhưng vải thủy tinh cao cấp không phải là thứ có thể sản xuất thành công ngay được. Các công ty mới phải trải qua một quá trình học hỏi khá gập ghềnh và nhiều trục trặc trước khi có thể cung cấp các sản phẩm ổn định và chất lượng cao đáp ứng các thông số kỹ thuật khắt khe, và điều đó cần thời gian,” ông Tseng giải thích.

Ngay cả khi đã có sản phẩm mới thay thế thì quá trình kiểm định cực kỳ nghiêm ngặt và mất thời gian, bởi sản phẩm phải qua được 3 vòng bởi các nhà sản xuất vật liệu, chất nền chip và cuối cùng là các nhà sản xuất chip như Nvidia.

Bản thân Nittobo cũng tốn rất nhiều năm mới phát triển và hoàn thiện được kỹ thuật này. Được thành lập vào năm 1923, với nguồn gốc từ các công ty dệt may từ cuối thế kỷ 19, Nittobo có sự bền vững và khả năng thích nghi qua nhiều thập kỷ.

Hãng vô danh Nhật Bản ẩn mình suốt 100 năm, giờ đây khiến Nvidia, Microsoft, Google phải xếp hàng chờ đợi, có tiền tỷ cũng phải cúi đầu- Ảnh 4.

Nhật Bản là quê hương của nhiều hãng vô danh nhưng quan trọng trong chuỗi cung ứng công nghệ

Hãng là công ty tiên phong trong sản xuất sợi thủy tinh công nghiệp tại Nhật Bản. Ngay từ năm 1938, họ đã thành công trong sản xuất sợi thủy tinh công nghiệp, gần như cùng thời điểm với các nhà sản xuất lớn ở Mỹ. Điều này cho thấy năng lực nghiên cứu và phát triển vượt trội từ rất sớm.

Tờ Nikkei nhận định Nittobo là lời nhắc nhở mới nhất về cách mà các nhà sản xuất vật liệu có vẻ như không được biết đến hỗ trợ toàn bộ chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.

Nhật Bản là quê hương của nhiều nhà sản xuất như vậy: Phim tích hợp Ajinomoto (ABF) độc quyền của Ajinomoto là cần thiết trong mọi chất nền chip cao cấp dành cho bộ xử lý AI mạnh mẽ; chất cản quang cao cấp của Shin-Etsu và JSR rất quan trọng đối với sản xuất chip tiên tiến; và CCL tiên tiến của Resonac được sử dụng trong tất cả các máy chủ cao cấp. Về thiết bị, Advantest nắm giữ thị phần lớn trong số các máy thử nghiệm được sử dụng cho chip AI và chip bộ nhớ băng thông cao.

Nittobo đã ghi nhận doanh số 109 tỷ Yên trong năm tài chính trước, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Biên lợi nhuận của công ty tăng vọt từ 9% lên 15,1%, chủ yếu là do nhu cầu về các ứng dụng AI.

Về mặt doanh thu, công ty này nhỏ hơn đáng kể so với các nhà sản xuất vật liệu chip nổi tiếng khác của Nhật Bản, như Shin-Etsu Chemical và JSR, nhưng tầm quan trọng của công ty trong chuỗi cung ứng là không thể phủ nhận.

Tóm lại, Nittobo là một lời nhắc nhở mạnh mẽ về cách mà những nhà sản xuất vật liệu tưởng chừng như “vô danh” lại có thể là xương sống của toàn bộ chuỗi cung ứng công nghệ toàn cầu.

Trong cuộc cách mạng AI, khi mà nhu cầu về sức mạnh tính toán tăng vọt, vai trò của những mắt xích thầm lặng như Nittobo trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, định hình không chỉ tương lai của ngành AI mà còn cả cách thức các gã khổng lồ công nghệ vận hành và phát triển.

Nguồn Nikkei, Fotune, BI

Continue Reading

Công Nghệ Phần Cứng

Mẫu điện thoại không app rác, không lo lộ dữ liệu

Published

on

Khi dữ liệu cá nhân và tài sản số ngày càng có giá trị, điện thoại thông minh không chỉ mạnh mẽ mà còn phải đảm bảo an toàn. Thay vì chạy đua cấu hình, nhiều doanh nhân hiện nay ưu tiên smartphone bảo mật, không chứa ứng dụng theo dõi, giảm thiểu nguy cơ rò rỉ thông tin. Mẫu điện thoại không app rác, không lo lộ dữ liệu.

Metavertu 2 Max là một trong những thiết bị nổi bật trên thị trường nhờ khả năng vận hành đồng thời hai hệ điều hành: Web2 OS (cho các tác vụ truyền thống) và Web3 OS (không gian số tách biệt, không phụ thuộc Google hay Android).

Tin-cong-nghe-9-6-vertu-viet-nam.jpg

Ở chế độ Web3, mọi hoạt động đều được mã hóa, không lưu vết, giúp người dùng kiểm soát hoàn toàn dữ liệu cá nhân và tài sản số. Máy còn tích hợp vi xử lý blockchain, có thể làm ví lạnh crypto, hỗ trợ giao dịch NFT và bảo vệ danh mục tài sản số.

Không chỉ chú trọng bảo mật, Metavertu 2 Max còn được cá nhân hóa theo yêu cầu với khung titanium chống xước, mặt lưng đa dạng như carbon, vàng hay kim cương. Mỗi sản phẩm đều được chế tác thủ công, hướng tới nhóm khách hàng đề cao cả phong cách lẫn sự an toàn.

Ông Nguyễn Minh Cường, Giám đốc kinh doanh Vertu Việt Nam cho biết: “Chúng tôi quan sát rất rõ xu hướng dữ liệu trở thành tài sản. Trong 5 tháng đầu năm 2025, dòng Metavertu 2 Max ghi nhận doanh số tăng 60% so với cùng kỳ, trong đó khách hàng dưới 40 tuổi chiếm đến 68%”.

Một nhà sáng lập trong lĩnh vực blockchain game chia sẻ: “Ở chế độ Web3, không ai biết tôi đang làm gì, dùng app nào. Chiếc điện thoại này như một căn phòng kín không ai có chìa khóa”.

Trong bối cảnh tài sản số phát triển mạnh, điện thoại bảo mật đang trở thành lựa chọn ưu tiên của doanh nhân hiện đại.

Tổng hợp

Continue Reading

Đọc nhiều nhất

Copyright © 2024 Ver2solution.com .