Connect with us

Tâm Lý Học NTD

Thế hệ dán mắt vào điện thoại trả giá

Published

on

Gen Z được cho là dành quá nhiều thời gian cho mạng xã hội và chọn sống nhàn rỗi. Việc xem nhẹ những công việc đầu đời khiến họ bỏ lỡ nhiều bài học cần thiết để trưởng thành, thế hệ dán mắt vào điện thoại trả giá.

Bài viết là quan điểm của Lucy Burton (Anh), biên tập viên chuyên mục việc làm và cây bút bình luận của tờ The Telegraph.

Những công việc đầu đời hiếm khi mang lại cảm giác hào hứng. Từ cuối tuổi teen đến đầu tuổi 20, tôi đã kinh qua đủ loại việc làm tạm bợ, như cắt lát thịt nguội trong siêu thị, phát tờ rơi cho các đêm nhạc tại câu lạc bộ, xịt nước hoa trong trung tâm thương mại đến ngồi văn phòng tẻ nhạt giữa khu công nghiệp hoang vắng.

Những công việc ấy đơn thuần là giúp tôi có thêm tiền tiết kiệm để du lịch sau đại học hay tham gia các cuộc vui cùng bạn bè. Thế nhưng, chúng cũng mang lại nhiều bài học đáng giá.

Một công việc nhàm chán ở giai đoạn đầu trưởng thành có thể dạy ta nhiều điều. Nếu Ricky Gervais – danh hài, “biểu tượng” của truyền hình Anh đầu thập niên 2000 – chưa từng nếm trải đời sống công sở tẻ ngắt, có lẽ series hài kịch The Office cũng chẳng thể ra đời.

Dù vậy, những trải nghiệm ấy đang dần biến mất.

Thế hệ lựa chọn sự nhàn hạ

Theo số liệu công bố đầu tháng 4 bởi tổ chức giáo dục Learning and Work Institute (Anh), cứ 5 người trẻ không học hành hay đi làm, thì có đến 3 người chưa từng làm bất kỳ công việc nào có lương.

Phần lớn trong nhóm NEET – Not in Education, Employment or Training (tạm dịch: “không học hành, không đi làm, không được đào tạo”) thậm chí còn không tìm việc. Trong bối cảnh tỷ lệ rối loạn tâm lý và lối sống “lười biếng” gia tăng ở người trẻ, chúng ta vẫn chưa nói đủ về những lợi ích từ việc từng làm một công việc tẻ nhạt khi còn trẻ.

the he gen z,  gen z viec lam,  the he bong tuyet anh 1
Nhiều người trẻ ngày nay coi thường các công việc đơn giản, tạm bợ, cho rằng chúng không mang lại giá trị hay thành tựu. Ảnh minh họa: Shkrabaanthony/Pexels.

Một thế hệ chỉ biết “dán mắt” vào màn hình và lựa chọn sự nhàn hạ thay vì đi làm, có lẽ rồi sẽ nhìn lại với sự tiếc nuối. Dù họ chưa nhận ra, việc tránh né trưởng thành cũng đồng nghĩa với việc bỏ lỡ vô số tương tác xã hội, cơ hội nghề nghiệp, và cả những khoảnh khắc không dễ chịu nhưng cần thiết như việc bị phê bình hay học cách phản biện.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa người trẻ phải chịu đựng những ông sếp độc đoán, thiếu tôn trọng. Nhưng việc tiếp nhận góp ý và biết tranh luận đúng mực là điều không thể thiếu trong môi trường làm việc.

Nhiều lãnh đạo đang dần mất kiên nhẫn với thế hệ trẻ. CEO Channel 4, Alex Mahon (Anh), từng nhận xét rằng nhiều bạn trẻ bước vào thị trường lao động mà không hề có khả năng tiếp nhận những ý kiến trái chiều. Đồng quan điểm, cựu huấn luyện viên Manchester United, Erik ten Hag (Hà Lan), từng chia sẻ trong năm nay rằng các cầu thủ bóng đá hiện đại khó tiếp nhận chỉ trích.

“Ở thế hệ của tôi, mọi người ‘dày mặt’ hơn nhiều. Khi đó, bạn có thể nói chuyện thẳng thắn”, ông nói.

Dù các quản lý đã học cách góp ý nhẹ nhàng hơn, nhưng mọi thứ đều có giới hạn. Việc không có công việc được trả lương trong suốt một khoảng thời gian dài đầu đời, và cũng không đi học, khiến cuộc sống của nhân sự dễ rơi vào trạng thái không phương hướng.

Theo khảo sát từ tổ chức More in Common và dự án New Britain thuộc Liên hiệp Giáo dục Quốc gia Anh, hơn một nửa số phụ huynh cho rằng con mình sẽ hạnh phúc hơn nếu không có mạng xã hội. Khi thế giới ngày càng hướng nội và gắn với không gian ảo, việc dấn thân ra bên ngoài lại trở thành điều đáng sợ với nhiều người trẻ.

Và khi những công việc đầu đời đơn giản bị bỏ qua, không ít bạn trẻ sau thời gian “NEET” bước vào thị trường lao động với tâm lý không chịu nổi sự khác biệt hay va chạm.

Rào cản trưởng thành của Gen Z

Một hãng luật tại London (Anh) trả lương lên tới 180.000 GBP (khoảng 230.000 USD)/năm cho sinh viên mới tốt nghiệp đã phải đăng tuyển vị trí “luật sư hỗ trợ”, với lý do rằng nhân viên Gen Z cần được “nắm tay chỉ việc” trong suốt ngày làm việc.

Trên blog pháp lý RollOnFriday, nơi đầu tiên đưa tin về tin tuyển dụng này, nhiều luật sư kỳ cựu phàn nàn rằng các thực tập sinh Gen Z không chịu nhận sai, thậm chí than phiền với bộ phận nhân sự khi bị góp ý.

Tôi không hoàn toàn đồng tình với định kiến cho rằng Gen Z là “thế hệ bông tuyết”, yếu mềm và mỏng manh. Rõ ràng, những vấn đề sức khỏe tinh thần ảnh hưởng đến thế hệ này là có thật, đặc biệt trong bối cảnh hậu Covid-19 và sự lan rộng của mạng xã hội. Nhưng với những người trẻ khỏe mạnh, có khả năng lao động nhưng lại không chủ động tìm việc, rõ ràng giá trị của lao động đã bị xem nhẹ.

Một công việc, dù đơn điệu, vẫn có thể mang lại nhiều lợi ích: mở rộng mối quan hệ, xây dựng các thói quen tốt, cải thiện kỹ năng giao tiếp và biết rõ hơn về mục tiêu nghề nghiệp. Những điều đó không chỉ có giá trị tạm thời mà còn theo ta suốt đời.

the he gen z,  gen z viec lam,  the he bong tuyet anh 2
Việc chưa từng có công việc được trả lương trước tuổi trưởng thành đang trở nên phổ biến, dẫn tới khoảng trống kinh nghiệm sống và kỹ năng xã hội. Ảnh minh họa: Anthonyshkraba Production/Pexels.

Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận rằng có vô vàn nghiên cứu lý giải vì sao Gen Z ngày nay không còn mặn mà với công việc. Trong thời đại mà giấc mơ sở hữu nhà ở ngày càng xa vời, nhiều bạn trẻ không còn thấy việc “cày cuốc” là đáng giá. Họ tự hỏi: “Ra ngoài làm mấy ca buồn tẻ, bị sếp soi mói thì để làm gì?”.

Theo khảo sát của đơn vị nghiên cứu Gallup (Mỹ), chỉ 10% người lao động Anh nói rằng họ “thực sự hứng thú” với công việc, không phải là một bức tranh sáng sủa cho hình ảnh của thị trường lao động.

Sự đứt gãy này một phần đến từ việc thiếu định hướng nghề nghiệp. Nghiên cứu gần đây của Trường Đại học Liên ngành London (Anh) cho thấy 23% người 18-24 tuổi không tin rằng có chương trình đại học phù hợp với mục tiêu sự nghiệp của họ. Trong khi đó, 45% sinh viên tốt nghiệp độ tuổi 25-34 cảm thấy “sốc” vì không được chuẩn bị đủ cho những thử thách của đời sống thực tế khi đi làm.

Nếu những người trẻ trong nhóm NEET có cơ hội làm thêm một công việc nhỏ từ sớm, họ có thể hiểu rõ hơn mình muốn gì trong tương lai. Số khác thì chứng kiến người thân bị cuốn vào guồng quay cơm áo gạo tiền và không muốn bước vào lối mòn ấy.

Theo khảo sát của doanh nghiệp tài chính Santander UK, 76% người sinh sau năm 1996 không muốn làm thuê cho người khác. Nhưng kể cả với những ai muốn làm chủ, họ cũng cần học nghề, học cách nhận góp ý và chịu được va chạm, những điều không thể thiếu để rèn tay nghề.

Theo ZingNews

Continue Reading
Click to comment

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Tâm Lý Học NTD

Thu nhập đang ổn tự nhiên bỏ ngang kết cục không có gì ngoài nợ nần: Giá mà mình biết trước…

Published

on

Phải đến lúc gánh nợ mới nhận ra có đam mê đến mấy mà không ra tiền thì cũng khó mà vui vẻ được! Thu nhập đang ổn tự nhiên bỏ ngang kết cục không có gì ngoài nợ nần.

Việc gì cũng vậy, cứ phải bắt tay vào làm rồi mới thấy được kết quả, ôm ấp mãi trong đầu mà không chịu thực hiện, suy cho cùng cũng là vô nghĩa. Xét về mặt lý thuyết, chúng ta đều biết là vậy. Thu nhập đang ổn tự nhiên bỏ ngang kết cục không có gì ngoài nợ nần.

Còn thực tế, đôi khi lại trái ngược hoàn toàn. Kết quả có thì cũng có đấy, chỉ là không được như kỳ vọng. Trong bối cảnh thị trường việc làm nhiều biến động như hiện nay, vẫn có không ít người chấp nhận thất nghiệp chủ động dù thu nhập rất khá, để rẽ hướng kinh doanh riêng.

Nhưng buồn thay, kết cục lại khiến họ phải thở dài, thầm nghĩ “giá như…”.

Kinh doanh buôn bán thất bại, không có gì ngoài nợ

Không khó để bắt gặp những tiếng “giá như” thế này trong các cộng đồng tâm sự chuyện kinh doanh, công việc. Có người không lãi nhưng may mắn không gánh nợ, có người thì âm cả trăm triệu. Mỗi người 1 câu chuyện, nhưng tất cả đều có 1 điểm chung: Nghỉ việc hành chính để tập trung kinh doanh.

Thu nhập đang ổn tự nhiên bỏ ngang, kết cục không có gì ngoài nợ nần: Giá mà mình biết trước…- Ảnh 1.

Nghỉ việc văn phòng để kinh doanh, rồi lại quay lại làm văn phòng… để kiếm tiền trả nợ kinh doanh

Hay như chia sẻ của cô gái này: “Em đang đi làm văn phòng, lương bây giờ 15 triệu. Trước đây, em có đầu tư chứng khoán và mở quán cà phê, cả 2 đều không suôn sẻ nên thành ra em đang nợ 700 triệu. 500 triệu vay ngân hàng, 200 triệu nợ mọi người xung quanh. Em cũng chịu nhiều đả kích từ gia đình nhưng em nghĩ có làm thì có chịu, em chọn cách đối diện với việc này, lên kế hoạch để trả nợ chứ không trốn tránh hay đổ lỗi. Em mong các anh chị có kinh nghiệm vun vén góp ý, chỉ dẫn , hướng dẫn thêm cho em cách chi tiêu, để dành tiền trả nợ với ạ”.

Nếu nghĩ tích cực, thì trong cái rủi có cái may. Nghỉ việc văn phòng để tập trung kinh doanh, nhưng đến khi việc kinh doanh không thuận lợi, họ vẫn có thể “tìm đường quay lại” làm văn phòng để kiếm tiền, trang trải nợ nần.

Còn cặp vợ chồng này thì khác, cũng nghỉ việc đầu tư kinh doanh nhưng khó khăn quá. Hiện tại nhà cửa đất đai cũng gọi là có mấy mảnh, nhưng không thể bán đi lấy tiền trả nợ vì nhiều lý do.

“Lúc trước em làm văn phòng, còn chồng kinh doanh. Do công việc kinh doanh gặp khó khăn thua lỗ nên giờ vẫn còn nợ khoảng 500 triệu. Bây giờ hai vợ chồng em buôn bán nhỏ, công việc buôn bán ngày càng khó khăn, kiếm tiền ăn từng bữa và trả nợ ngân hàng có tháng còn không đủ.

Có nhà có đất nhưng hiện không bán được vì nhiều lý do khách quan. Nhiều lúc nghĩ mà em nản vô cùng, rõ là có tài sản nhưng lại không sử dụng được những lúc khó khăn…” – Cô vợ chia sẻ.

Vậy mới thấy đúng là làm gì thì làm, cũng phải ra tiền – không nhiều nhưng chí ít phải đủ sống, chứ không có đam mê cỡ nào cũng khó mà làm được.

Đam mê cỡ nào cũng đừng vội nghỉ việc để dồn sức kinh doanh!

Trong bối cảnh hiện tại, nghỉ việc để rẽ hướng kinh doanh là quyết định có phần khá rủi ro. Khó khăn chung mà, dân văn phòng khó thì dân kinh doanh cũng không dễ dàng hơn là bao.

Nếu còn đi làm, thì chí ít cũng có một khoản thu nhập cố định hàng tháng, chứ việc buôn bán thì chẳng biết đâu là lường trước được.

Nếu không có chỗ dựa tài chính vững chắc, thiết nghĩ, lựa chọn từ bỏ công việc đang ổn định để “tất tay” kinh doanh là khá mạo hiểm. Vốn liếng đã vét sạch để hiện thực hóa mong muốn được làm chủ, mà chẳng may việc buôn bán không thuận lợi, phải gồng lỗ hoặc thậm chí là gánh nợ, thử nghĩ xem bạn sẽ “xoay vốn” từ đâu? Lúc ấy, có một nguồn thu nhập ổn định và đều đặn “chảy” vào tài khoản hàng tháng, có phải tốt hơn không?

Đành rằng việc vừa làm văn phòng, vừa bắt đầu kinh doanh không phải chuyện dễ dàng. Đôi khi, bạn sẽ phải làm việc gấp đôi, thậm chí gấp 3 và phải hy sinh cả thời gian ăn uống, ngủ nghỉ của bản thân. Nhưng đổi lại, vừa làm việc văn phòng, vừa bắt đầu kinh doanh vẫn là phương án ít rủi ro hơn cho chính bạn. Nỗ lực chịu khó, chịu khổ một thời gian, cho đến khi hòa vốn, lãi đều và ổn định hàng tháng rồi nghỉ việc hành chính cũng chưa muộn.

Suy cho cùng, đi làm thuê hay tự làm chủ chẳng phải việc có thể mang lại kết quả mỹ mãn trong “ngày 1 ngày 2”. Đưa ra quyết định một cách quá nóng vội là điều rất không nên.

Bên cạnh đó, cũng nên nhớ rằng: Làm gì thì làm, cũng phải duy trì quỹ dự phòng cho bản thân và gia đình!

Kinh doanh dù nhỏ hay lớn cũng đều cần vốn, chuyện này không có gì khó hiểu hay đáng bàn. Nhưng vét sạch tiền tiết kiệm lẫn tiền dự phòng để làm vốn kinh doanh lại là chuyện khác.

Công việc hành chính đã nghỉ, tiền tiết kiệm đã hết, nếu không may buôn bán không thuận lợi, trong người chẳng còn 1 đồng, lại gặp cả tá chuyện “hỡi ơi” cần tiền,.., cứ thử đặt mình vào hoàn cảnh ấy, bạn sẽ hiểu quỹ dự phòng quan trọng đến thế nào.

Chuẩn bị quỹ dự phòng cho bản thân trước khi bắt đầu kinh doanh, khởi nghiệp là tự chừa cho mình một đường lui. Đừng chỉ chăm chăm tin rằng “liều ăn nhiều” mà quên tính tới khả năng nếu “ngã về không”, mình sẽ ra sao?

Theo Đời sống pháp luật

Continue Reading

Tâm Lý Học NTD

Vì sao Gen Z tự gọi mình là thế hệ cợt nhả?

Published

on

Gần nửa đêm, sếp nhắn tin giao việc, yêu cầu hoàn thành gấp, Kim Ngân vò đầu bứt tóc rồi trả lời: “Khó quá đại ca ơi, em không làm được đâu”. Vì sao Gen Z tự gọi mình là thế hệ cợt nhả?

Câu nói nửa đùa nửa thật là cách cô gái 23 tuổi ở Hà Nội thường nói mỗi khi gặp nhiệm vụ khó. Ngân giải thích gọi sếp là “đại ca” không phải sự thiếu tôn trọng mà để tạo cảm giác thoải mái, giảm bớt căng thẳng giữa nhân viên và lãnh đạo. Với cô, đây là một phần trong tinh thần lạc quan, trẻ trung mà Gen Z mang tới môi trường công sở. Vì sao Gen Z tự gọi mình là thế hệ cợt nhả.

“Giao tiếp kiểu ‘bằng vai phải lứa’ không có nghĩa là tôi làm việc thiếu nghiêm túc”, Ngân nói.

Cô ví dụ thêm, khi sản phẩm chưa đạt yêu cầu, thay vì gửi cho sếp để kịp deadline, cô thẳng thắn nói: “Cái này chưa đủ ‘wao’ (wow – câu cảm thán thể hiện sự hài lòng) đâu sếp ơi, đợi em thêm chút nhé”.

Làm việc trong công ty có nhiều đồng nghiệp lớn tuổi, Ngân thấy không khí văn phòng quá nghiêm túc. Cô cùng nhóm nhân viên Gen Z chủ động tạo ra sự sôi nổi, bàn bạc ý tưởng một cách thoải mái. “Công việc vốn đã áp lực, vậy tại sao không tìm cách khiến nó thú vị hơn?” cô nói.

Cách giao tiếp mà Ngân và nhiều Gen Z khác đang thể hiện thời gian gần đây nằm trong xu hướng có tên gọi “Khi thế hệ cợt nhả tham gia thị trường lao động“.

Xu hướng này bắt nguồn từ các nền tảng mạng xã hội và được giới trẻ hưởng ứng rầm rộ. Khảo sát của VnExpress hiện có hơn chục hội nhóm trên Facebook cũng bàn luận sôi nổi về chủ đề này. Nhóm lớn nhất thu hút hơn 92.000 thành viên, mỗi ngày có hàng chục bài đăng chia sẻ góc nhìn, kinh nghiệm làm việc theo phong cách hài hước, dí dỏm. Nội dung xoay quanh hình ảnh nhân viên trẻ thể hiện sự thoải mái nơi công sở, từ sử dụng meme (hình ảnh hài hước) đến cãi sếp theo “cách trẻ con”.

Trong từ điển, cợt nhả mang nghĩa trêu đùa thiếu đứng đắn. Tuy nhiên, Gen Z lại dùng để chỉ phong cách giao tiếp thoải mái và đơn giản hóa mọi vấn đề để tạo sự hài hước. Cụm từ này được Gen Z sử dụng theo hướng tự trào.

Minh Thư, 24 tuổi, giáo viên mầm non tại Hà Nội, cũng hứng thú với “trend” này. Cô đăng video lên mạng xã hội với nội dung “Khi thế hệ cợt nhả đi làm: giáo viên mong giờ ra chơi hơn học sinh“. Trong một clip khác, thay vì đến tận nơi nhắc nhở từng học sinh ngủ trưa, Thư hô: “Ai thực sự đi ngủ rồi thì giơ tay!”. Ngay sau đó hàng chục cánh tay nhỏ xíu giơ lên.

Với nhiều người, hành động của Thư có thể coi là thiếu nghiêm túc với người đứng trên bục giảng. Nhưng với Thư, đó là cách giúp gần gũi hơn với học sinh, tạo không khí vui vẻ và bớt căng thẳng trong lớp học.

“Tôi luôn đảm bảo học sinh ngoan ngoãn và lễ phép, nhưng không nhất thiết phải gò ép mọi thứ theo khuôn khổ”, cô chia sẻ.

Không chỉ trong môi trường văn phòng, tinh thần “cợt nhả” còn xuất hiện ở nhiều ngành nghề khác như giải trí, y tế, giáo dục, luật. Một người dùng tự xưng là luật sư đăng video: Khi Gen Z đi làm, bằng chứng ra tòa là ảnh chụp màn hình. Hay trong ngành y, một số bác sĩ trẻ trêu đùa: Ca bệnh này chưa đủ “wao” (tức là bệnh nhẹ, chữa được). Ngay cả khi tốt nghiệp, thay vì nhận bằng trang trọng, nhiều sinh viên nhảy TikTok theo trend hoặc chụp ảnh tự sướng cùng hiệu trưởng kèm chú thích “Thế hệ cợt nhả sẵn sàng bước vào thị trường lao động”.

Xu hướng này cũng ảnh hưởng đến tuyển dụng. Thay vì ghi “Cần tuyển nhân viên trẻ sáng tạo, năng động”, một số chuyên gia nhân sự viết: “Cần tuyển thế hệ cợt nhả, chúng tôi muốn được làm phiền”.

Dù được yêu thích và hưởng ứng rộng rãi, xu hướng “cợt nhả” vẫn khiến nhiều người khó chịu. Họ cho rằng nó có thể bị hiểu là thiếu nghiêm túc, không phù hợp với môi trường chuyên nghiệp.

Theo Tiến sĩ Vũ Thu Hương, nguyên giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội, cụm từ “thế hệ cợt nhả” thực chất là cách Gen Z thể hiện sự vui vẻ, hài hước và góc nhìn lạc quan trước cuộc sống. Họ trưởng thành trong thời kỳ hòa bình, kinh tế – xã hội phát triển, ít phải chịu áp lực về cơm áo gạo tiền như các thế hệ trước. Điều này giúp họ có tâm thế thoải mái hơn khi đối diện với thách thức trong công việc và cuộc sống.

Chuyên gia cho rằng, so với thế hệ trước, từng chịu nhiều định kiến xã hội, luôn nghiêm túc từ lời ăn tiếng nói đến tác phong làm việc – Gen Z cởi mở hơn. Họ dám thể hiện quan điểm, không ngại tranh luận với cấp trên và sẵn sàng thử nghiệm cái mới, chấp nhận sai lầm để rút kinh nghiệm.

“Thay vì chìm đắm trong than vãn hay tiêu cực, họ chọn cách thể hiện dí dỏm để lan tỏa năng lượng tích cực”, bà Hương nói.

Là người thường xuyên làm việc với Gen Z, chuyên gia này đánh giá nhân viên trẻ đang mang đến một luồng gió mới cho môi trường công sở. Không chỉ sáng tạo và linh hoạt trong công việc, họ biết cách tạo bầu không khí thoải mái, kết nối đồng nghiệp bằng những trò đùa vui vẻ. Điều này khiến các thế hệ trước cũng dần thay đổi quan điểm và cách giao tiếp trong công việc.

Chị Nguyễn Hồng, 35 tuổi, quản lý phòng marketing của một công ty sự kiện tại Hà Nội, từng choáng ngợp trước sự khác biệt văn hóa thế hệ khi làm việc với 15 nhân sự Gen Z.

Chị kể, trong các cuộc họp, thay vì chỉ lắng nghe, nhân viên trẻ thường sôi nổi tranh luận, liên tục đưa ra ý tưởng và thậm chí yêu cầu sếp giải thích rõ để thuyết phục họ thực hiện. Khi cảm thấy căng thẳng, họ chủ động đề xuất nghỉ giải lao, ăn uống rồi mới tiếp tục.

“Ban đầu tôi thấy lạ thậm chí khó chịu, nhưng dần hiểu đó là cách Gen Z kết nối với sếp, giúp môi trường làm việc bớt cứng nhắc,” chị Hồng nói. Người quản lý thừa nhận rằng nếu quản lý linh hoạt, thích nghi, nhân sự trẻ sẽ có thêm động lực sáng tạo và gắn bó hơn.

Theo VNexpress

Continue Reading

Tâm Lý Học NTD

Ba nhược điểm lớn nhất của bản chất con người

Published

on

Người xưa có câu: “Nhân vô thập toàn”. Ba nhược điểm lớn nhất của bản chất con người: Người sống ở trên đời tựa viên ngọc thô, cần được mài giũa. Muốn thành công, ta cần nhận ra khuyết điểm của bản thân, nỗ lực cải thiện nó.

Ba nhược điểm lớn nhất của bản chất con người: Bản chất của con người là thích cho rằng mình ưu việt. Một số người thấy rất hạnh phúc không phải vì họ giàu có, thông minh, vẻ ngoài nổi bật hơn số đông, mà vì họ giàu có, thông minh và đẹp đẽ hơn những người xung quanh.

Chúng ta thường gặp những người luôn tự đặt mình ở vị trí cao hơn người khác, không ngừng thể hiện thế mạnh của bản thân, trong lòng thì coi thường mọi người nhưng bề ngoài lại ra vẻ đạo mạo.

Đó chính là biểu hiện của việc “thích làm thầy người khác”. Bên ngoài thì ra vẻ chỉ bảo, nhưng thực ra họ chỉ muốn chứng tỏ mình xuất sắc, ưu tú hơn người. Khi giáo dục, hướng dẫn người khác, họ tự cho rằng “Tôi giỏi hơn bạn”.

Như đã nói, đặc tính này thuộc về bản chất của con người. Trước mặt người khác, ai cũng muốn tỏ ra mình xuất sắc, ưu tú hơn, từ đó có được cảm giác thỏa mãn. Thích làm thầy người khác thực chất là mưu cầu hư vinh cho bản thân.

Họ không hiểu nhưng lại tỏ ra mình hiểu, liên tục giảng đạo lý, áp đặt quan điểm của mình lên người khác. Chẳng qua họ chỉ đang cố gắng thỏa mãn cái tôi mà thôi.

Trên thực tế, mọi người đều là “ếch ngồi đáy giếng”, những gì chúng ta nhìn thấy và trải nghiệm chỉ là vùng trời bé nhỏ trên đầu ta.

Kết quả của việc “thích làm thầy người khác” thường là tự chuốc lấy tủi nhục. Chúng ta muốn thể hiện là mình thông minh, nhưng kết quả lại phơi bày sự ngu ngốc của bản thân trước thiên hạ.

Hai nghìn năm trước, Mạnh Tử đã nói: “Tai họa của con người nằm ở chỗ thích làm thầy thiên hạ”. Đây là biểu hiện của người có lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ và kiêu ngạo.

Đã là con người, ai cũng ghen tị với những người sống tốt hơn mình. Một số người luôn cảm thấy đau khổ, không phải vì họ tầm thường hay nghèo khổ mà vì họ thấy những người xung quanh có cuộc sống tốt hơn mình.

Chúng ta thường xuyên bắt gặp những người ưu việt hơn bản thân. Khi đó, những người có lối tư duy đúng đắn sẽ biết trân trọng cơ hội và học hỏi từ đối phương, còn những người lòng dạ hẹp hòi chỉ ganh ghét, đố kỵ.

Một khi đã nảy sinh lòng đố kỵ, bạn đã tự thừa nhận sự kém cỏi của bản thân. Những người hay đố kỵ luôn kết bạn với người không tài giỏi bằng mình, bởi họ chỉ hài lòng khi thấy người khác kém cỏi hơn.

Người biết trân trọng và học hỏi sẽ có được những điều tốt đẹp, vì họ không đau khổ khi nhận ra người khác giỏi hơn mình. Ngược lại, họ biết coi trọng cơ hội được tiếp xúc với người giỏi hơn để tìm cách cải thiện, tiến bộ.

Con người thích ấp ủ những suy nghĩ tự cao tự đại, rồi nghĩ mình siêu phàm. Sự tự tin của một số người không có nền tảng là năng lực thực sự, mà là ảo tưởng bản thân giỏi giang hơn người khác.

Sâu thẳm trong thâm tâm, mỗi người đều “tự cho mình là trung tâm vũ trụ”, đó là suy nghĩ bẩm sinh. Nó liên tục khiến chúng ta nghĩ rằng mọi đặc điểm của mình là tốt đẹp và hợp lý nhất.

Khi chứng kiến thành công của người khác, con người thường thấy bị đe dọa. Lúc này, cơ chế tự bảo vệ bản thân sẽ nhanh chóng khởi động. Trong thâm tâm, ta sẽ thu thập mọi manh mối để chứng minh thành công của người khác là do may mắn, nếu bản thân có cùng điều kiện khách quan như thế thì thậm chí sẽ còn đạt thành tích cao hơn.

Những người này thà tự lừa mình dối người, thà chìm đắm trong thế giới của riêng mình chứ không muốn thừa nhận sự tầm thường của bản thân.

Có những người từ nhỏ đã tự cao tự đại, nhưng khi lớn lên mới thấy mình không xuất sắc như tưởng tượng, thế nên họ đặt rất nhiều kỳ vọng vào con cái, cố gắng hết mình để cho con môi trường phát triển tốt nhất chỉ vì hy vọng đứa trẻ sẽ trở thành nhân tài xuất chúng.

Đây là sai lầm lớn nhất của các bậc cha mẹ. Thực ra, quy tắc để trở nên tài giỏi rất đơn giản: biết thừa nhận điểm yếu của bản thân, tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn và phát hiện tài năng của chính mình.

Nhưng hầu hết mọi người đều không vượt qua được bước đầu tiên.

Trên thực tế, trong cuộc đời mỗi người có ba lần trưởng thành: lần thứ nhất là khi nhận ra mình không phải là trung tâm của thế giới, lần thứ hai là khi nhận ra mình không thể thay đổi thế giới, lần thứ ba là dù đã nhận ra hai sự thật trên mà vẫn yêu thương thế giới này.

Thích làm thầy của người khác, thói đố kỵ và tự cao tự đại là ba nhược điểm lớn nhất của bản chất con người. Đó cũng là ba rào cản mà nhiều người không thể vượt qua.

Nếu vượt qua được chúng, bạn nhất định sẽ thành công.

Continue Reading

Trending

Copyright © 2024 Ver2solution.com .